ĐẠI CƯƠNG
Ung
thư vú là bệnh chủ yếu ở phụ nữ. Chỉ 1% các ung thư vú xuất hiện ở nam giới.
Ung thư vú xảy ra chủ yếu ở các nước phát triển phương Tây. Mỗi năm trên nửa
triệu phụ nữ phát sinh ung thư vú trên toàn cầu, với 50% các trường hợp này xảy
ra ở Bắc Mỹ và các nước châu Âu, chiếm gần 20% toàn bộ phụ nữ.
Tại
Hoa Kỳ, năm 2004 có 212.000 trường hợp ung thư vú mới mắc và 39.000 trường hợp
chết do ung thư vú. Ước tính ung thư vú chiếm 32% ung thư ở phụ nữ và chiếm 15%
tỷ lệ tử vong ở phụ nữ nói chung. Tại Anh ung thư vú cũng là loại ung thư phổ
biến nhất ở phụ nữ. Có khoảng 150.000 phụ nữ có ung thư vú hoặc đã được mổ ung
thư vú. Số các trường hợp ung thư vú mới ở phụ nữ Anh và xứ Wales là 28.812
trong năm 1990, với 13.634 tử vong. Tại Anh, các phụ nữ có nguy cơ trong đời
mắc ung thư vú là 1/12 người, tại Mỹ nguy cơ này lớn hơn (1/9 người). Số các
trường hợp mới mắc hàng năm đang tăng. Vì vậy ung thư vú ở các nước này trở
thành một vấn đề sức khoẻ quan trọng.
Ở
Việt nam, ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Ở miền Bắc Việt
nam, ung thư vú đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư ở phụ nữ. Ở miền nam Việt
nam, ung thư vú đứng hàng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Theo ghi nhận ở một
số vùng sinh thái giai đoạn 2001 - 2003, ung thư vú có tỷ lệ mắc chuẩn theo
tuổi là 33,7/100.000 dân ở Hà nội, 10,4/100.000 dân ở Thái nguyên, 9,0/100.000
dân ở Hải phòng, 11,5/100.000 dân ở Huế, 21,9/100.000 dân ở Cần
thơ. Tại thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 1995 - 1998, tỷ lệ này là 13,6/100.000 dân.
Nguyên nhân của ung thư vú chưa được
biết rõ. Một loạt các yếu tố xã hội, di truyền và môi trường hình như liên quan
với nhau.
GIẢI
PHẪU VÀ NHỮNG THAY ĐỔI CỦA VÚ BÌNH THƯỜNG
Vú là gì?
Vú
bao gồm các tuyến và mô mỡ nằm trên các cơ ngực của thành ngực trải dài từ
xương sườn thứ hai đến xương sườn thứ sáu. Ở phía trước vú trải dài từ xương ức
tới đường giữa dưới hố nách. Có một phần hình tam giác kéo dài về phía hõm nách
và được gọi là đuôi nách.
Các tuyến của vú sản xuất ra sữa sau
khi người phụ nữ đẻ con.
Mỗi tuyến vú cũng được gọi là tiểu
thuỳ (thuỳ nhỏ) và nhiều tiểu thuỳ tạo nên một thuỳ tuyến.
Mô vú sản xuất sữa gồm 12 đến 20
thuỳ tuyến trong mỗi vú.
Sữa đi từ các thuỳ tuyến qua các ống
nhỏ dẫn đến các xoang dẫn sữa, các xoang này đổ vào nhiều vị trí trên núm vú.
Nếu các ống này bị tắc vì một lý do nào đó, chúng có thể giãn rộng thành các
xoang được gọi là các nang. Các ống cùng với các tiểu thuỳ được gọi là đơn vị
ống tận - tiểu thuỳ. Ung thư vú phát sinh từ các đơn vị ống tận tiểu thuỳ này.
Các tuyến và ống tuyến trở nên lớn
hơn khi chứa đầy sữa, tuy nhiên mô tạo nên kích thước và hình dạng của vú là mô
mỡ.
Cũng có các mạch máu và mạch bạch
huyết trong vú.
Bạch huyết là một sản phẩm dịch
trong từ vú đi ra để đến các hạch bạch huyết.
Hạch bạch huyết là một khối mô hình
hạt đậu nhỏ có chức năng lọc và làm trong dịch bạch huyết.
Hầu hết các hạch bạch huyết thu nhận
dịch từ vú nằm ở hố nách.
Vú có chức
năng gì?
Chức năng đầu tiên của vú là sản
xuất ra sữa sau khi có mang.
Mặc dù có thể nó không bao giờ có
chức năng này, vú chuẩn bị liên tục cho quá trình sinh sữa.
Tất cả những gì bạn ăn, hít vào hoặc
tiêm vào cơ thể đều sẽ xuất hiện trong dịch vú sau 3 tới 5 phút.
Trong đời người phụ nữ, vú luôn luôn
chuẩn bị cho việc sản xuất sữa. Khi có điều gì đó trở nên bất thường trong việc
chế tiết và tái hấp thu (hút lại) ổn định của chất dịch này, có thể xảy ra
những biến đổi lành tính của vú.
Vú
được hình thành từ các tuyến tiết sữa, thành phần sản xuất sữa của vú. Nó được
vây quanh bởi mỡ và nâng đỡ bởi mô xơ. Các ống từ các tuyến này dẫn vào những
ống lớn hơn bắt nguồn từ núm vú. Cấu trúc này có thể so sánh với một cây với
thân cây tạo thành hệ thống ống chính và lá tạo thành hệ thống ống và tiểu thuỳ
tuyến. Ở hệ thống ống của các tuyến trong vú diễn ra những thay đổi gây nên các bệnh lành tính và ung
thư vú.
Các
hạch bạch huyết trong hố nách và dưới xương ức hoạt động như hệ thống dẫn lưu
cho vùng vú. Các hạch bạch huyết này hoạt động như những hệ thống lọc ung thư
của vú.
Vú thay
đổi như thế nào khi người ta trở nên già hơn
Khi
người phụ nữ trở nên già đi, có những thay đổi trong vú. Bằng sự hiểu biết vú
thay đổi như thế nào trong đời sống của người phụ nữ, chúng ta có thể hiểu được
những thay đổi xảy ra trong bệnh vú.
Dậy thì
Khi
bắt đầu hành kinh, vú cũng bắt đầu phát triển và thành thục. Một hình đĩa nhỏ
mô vú và quầng vú bắt đầu phát triển. Vú được hình thành chủ yếu từ mô mỡ và mô
xơ để nâng đỡ các tuyến sản xuất sữa (tiết sữa).
Chu kỳ
kinh
Vú
bắt đầu phát triển khi người phụ nữ bắt đầu hành kinh cùng với việc sản xuất ra
các nội tiết tố estrogen và progesteron. Mỗi tháng do sự kích thích của các nội
tiết tố này, cơ thể người phụ nữ chuẩn bị cho việc có mang. Không
phải chỉ có tử cung chuẩn bị mà vú cũng
chuẩn bị cho việc có mang có thể xảy ra.
Khi
việc có mang không xảy ra, lớp bề mặt phía lòng tử cung (còn gọi là nội mạc
bong ra (biểu hiện bằn kinh nguyệt) nhưng ở vú không thể xảy ra như thế. Điều
đó dẫn đến những thay đổi trong mô vú và có thể gây nên các cục ở vú gây đau.
Có
mang
Khi
chuẩn bị cho việc sản xuất ra sữa, các ống tuyến vú giãn rộng. Vú sẽ tăng kích
thước lên khoảng một phần ba. Sau khi có mang hoặc cho con bú, vú thường trở
lại kích thước bình thường như trước đó. Đôi khi vú có thể trở nên nhỏ hơn
trước khi có mang.
Mãn
kinh
Khi
vú không còn bị kích thích bởi các nội tiết tố estrogen và progesteron, nó bắt
đầu giảm kích thước. Điều này có thể do mãn kinh tự nhiên hay mãn kinh gây nên
do phẫu thuật. Trong mãn kinh do phẫu thuật, hai buồng trứng có thể được cắt bỏ
trước tuổi mãn kinh bình thường có thể xảy ra. Khi điều đó xảy ra, mô mỡ trong
vú có thể dễ dàng mất đi.
UNG
THƯ VÚ
Một
số loại tế bào khác nhau có trong vú bình thường, tất cả các tế bào này có thể
thực hiện các chức năng bình thường. Trong bệnh ung thư, các tế bào vú trở nên
bất thường, chúng sinh sản với tỷ lệ không kiểm soát được và tạo nên các hình
thái phát triển không đều, không có chức năng thực thụ nào trừ sự phát triển.
Các tế bào ung thư có tỷ lệ sinh sản cao hơn nhiều so với sự phát triển của các
tế bào bình thường. Các tế bào ung thư không chỉ sinh sản ở vú mà cũng có thể
lan tràn ra các phần khác của cơ thể. Sự lan tràn này được gọi là di căn.
Do
sinh sản không kiểm soát được, các tế bào ung thư có thể chiến thắng các tế bào
bình thường và có thể làm cản trở chức năng của các tế bào bình thường. Khi các
tế bào ung thư phát triển không kiểm
soát được, chúng có thể lấn át cơ thể và gây chết người.
Ung
thư vú phát triển ở đâu?
Các
tuyến chế sữa là các thành phần sản xuất sữa của vú. Các đơn vị mô có chức năng
sản xuất sữa được gọi là đơn vị ống tận -
tiểu thuỳ (ống tận cùng - tiểu thuỳ tuyến). Trong vùng này các tế bào trở
nên bất thường và có thể tiến triển thành ung thư vú.
Giai
đoạn tiền lâm sàng của ung thư vú là gì?
Ung
thư vú không phát triển qua một đêm, mà là sự thay đổi hình thái phát triển vú
bình thường. Thời gian cần cho một ung thư phát triển đến khi nó có thể được
tìm thấy bằng bất kỳ phương tiện nào (chụp vú hoặc khám lâm sàng) được gọi là giai đoạn tiền lâm sàng của ung thư vú.
Điều
gì xảy ra trong các tế bào vú khiến nó trở thành ung thư?
•
Đơn vị tận cùng của tuyến tiết sữa
bình thường chỉ có một hàng tế bào. Các tế bào này thường bị kích thích trong
chu kỳ kinh của phụ nữ. Vì những lý do không được biết rõ, các tế bào này bị
kích thích để phát triển nhanh hơn.
•
Trong giai đoạn đầu của sự tiến
triển, các tế bào phát triển nhanh hơn nhưng có hình thái bình thường. Biến đổi
này gọi là quá sản hay bệnh tăngsinh của vú. Nếu bệnh được tìm thấy trên một sinh thiết vú, nguy cơ
người phụ nữ bị ung thư vú trong 25 năm tới tăng 1,5 phần trăm.
•
Trong giai đoạn thứ hai của sự phát
triển ung thư vú, các tế bào không chỉ phát triển nhanh hơn mà bắt đầu phát
triển dưới hình thái không đều. Giai đoạn này được gọi là quá sản không điển hình hoặc bệnh tăng sinh không điển hình. Khi
xuất hiện, nó làm tăng nguy cơ phát sinh ung thư vú lên khoảng ba lần nguy cơ
bình thường.
•
Trong giai đoạn tiếp theo, các tế
bào tiếp tục phát triển bất thường và trở thành một ung thư thực sự. Trong giai
đoạn này các tế bào ung thư "chưa biết" đi như thế nào qua thành của
nó. Loại ung thư này được gọi là ung thư tại chỗ (nội ống).
•
Giai đoạn cuối cùng của sự tiến
triển được gọi là ung thư vú xâm nhập. Trong giai đoạn này ung thư không những
phát triển qua thành của các ống tuyến vú (qua một màng mỏng được gọi là màng
đáy) mà còn xâm nhập các cấu trúc vú, bao gồm cả các mạch máu và bạch mạch.
Trong giai đoạn này, ung thư còn lan tràn qua các vùng khác của cơ thể.
Loại ung
thư vú nào có thể phát triển?
Các
tế bào ung thư vú có thể phát triển từ các tế bào phủ các ống (ung thư biểu mô ống)
hoặc các tiểu thuỳ (ung thư biểu mô tiểu thuỳ)
Ung
thư vú là gì?
Ung
thư xảy ra khi các tế bào trong vú bắt đầu phát triển vượt ra khỏi sự kiểm soát
của cơ thể và có thể xâm nhập vào mô xung quanh.
Tập
hợp các tế bào phát triển ngoài sự kiểm soát của cơ thể này tạo nên một khối u.
Tuy
nhiên một số u không phải là ung thư vì nó không thể lan tràn và gây nguy hiểm
đến tính mạng. Các u này được gọi là các u lành.
Các u lành tính không phải là ung
thư:
•
U lành hiếm khi đe doạ đến tính
mạng.
•
Thông thường, các u lành có thể được
cắt bỏ, và không bao giờ phát triển trở lại.
•
Các tế bào từ các u lành không bao
giờ lan tràn ra các mô xung quanh chúng hoặc tới các phần khác của cơ thể.
Các
u ác tính là ung thư
•
Các u ác tính nói chung nghiêm trọng
hơn các u lành. Chúng có thể đe doạ đến tính mạng.
•
U ác tính thường có thể cắt bỏ,
nhưng chúng thường bị tái phát.
•
Các tế bào từ các u ác tính có thể
xâm nhập và phá huỷ các mô xung quanh và các cơ quan. Các tế bào ung thư có thể
tách rời khỏi một khối u ác tính và đi vào dòng máu hoặc hệ thống bạch huyết.
Đó là lý do vì sao các tế bào ung thư từ một ung thư ban đầu (u nguyên phát) để
tạo thành các u mới trong các cơ quan khác. Sự lan tràn của ung thư được gọi là
di căn.
Khi
các tế bào ung thư đi vào hệ thống bạch huyết, chúng có thể được tìm thấy trong
các hạch bạch huyết quanh vú, đặc biệt là các hạch nách.
Các
tế bào ung thư cũng có thể di chuyển đến các cơ quan khác qua hệ thống bạch
huyết hoặc đường máu. Khi các tế bào ung thư lan tràn (di căn), u mới (u thứ
phát hay di căn) được hình thành có cùng loại tế bào và cùng tên với u nguyên
phát. Ví dụ nếu ung thư vú lan tràn tới xương, các tế bào ung thư ở xương là
các tế bào ung thư vú. Bệnh này là ung thư vú di căn, không phải là ung thư
xương. Bệnh được điều trị như một ung thư vú, chứ không phải ung thư xương.
Các
u có thể lan tràn khắp cơ thể và xâm nhập vào các mô xung quanh được coi ung
thư hay còn gọi là u ác tính.
Về
lý thuyết, bất kỳ một loại mô nào trong vú cũng có thể trở thành ung thư, nhưng
ung thư thường bắt nguồn từ các tuyến và các ống dẫn sữa và được gọi là ung thư
biểu mô.
Vì
phải mất nhiều tháng đến nhiều năm để một khối u đủ lớn để nhận biết được ở vú,
sàng lọc ung thư vú bằng chụp vú có thể phát hiện được các ung thư vú trước khi
bệnh biểu hiện rõ.
CÁC
YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA UNG THƯ VÚ
Không
ai biết được nguyên nhân chính xác của ung thư vú. Bác sĩ không thể cắt nghĩa
chính xác vì sao người phụ nữ này bị ung thư vú trong khi người khác không bị.
Ung thư vú không lây. Không người nào có thể nhiễm bệnh từ một người khác.
Tuy
nhiên các nghiên cứu đã chỉ rõ rằng những người phụ nữ với một số yếu tố nguy
cơ dễ phát sinh ung thư hơn những người khác. Yếu tố nguy cơ là cái gì đó làm
tăng cơ hội của một người phát sinh bệnh.
Những nguy cơ của ung thư vú bao gồm
:
Tuổi
Cơ hội mắc ung thư vú tăng lên khi
người phụ nữ trở nên già hơn. Các phụ nữ trên 60 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao
nhất. Bệnh này không phổ biến trước tuổi mãn kinh.
Nguy
cơ phát sinh trung bình với ung thư vú trong thời gian sống là từ 6 đến 10%.
Khi người phụ nữ già hơn và nguy cơ phát sinh ung thư vú cao hơn, việc tự khám
vú, khám vú do các bác sĩ thực hiện hàng năm và chụp X quang vú trở nên quan
trọng hơn ở nhiều nước. Ở Việt nam, chưa thể áp dụng chụp X quang vú sàng lọc
hàng loạt để phát hiện sớm ung thư vú, theo kinh nghiệm của chúng tôi, có thể
phát hiện sớm ung thư vú bằng tự khám vú, khám vú tại cộng đồng do các bác sĩ
thực hiện và chọc hút tế bào bằng kim nhỏ khi phát hiện thấy u vú hoặc tổn
thương nghi ngờ.
Dưới đây là liên quan giữa tuổi và
nguy cơ ung thư vú:
Nguy
cơ của thời gian sống
|
Tuổi
|
Nguy
cơ phát sinh ung thư vú
|
|
30
|
1,5%
|
|
50
|
4,0%
|
|
70
|
6,0%
|
Ung
thư vú có từ trước
Nếu
người phụ nữ đã có ung thư vú từ trước, nguy cơ phát sinh ung thư vú ở vú đối
bên là 0,8%. Nguy cơ thời gian sống toàn bộ phát sinh ung thư vú phụ thuộc vào
tuổi khi ung thư vú phát triển và tăng lên khoảng 13% nguy cơ nếu là trước mãn
kinh và nguy cơ 3% nếu là sau mãn kinh.
Tiền sử
gia đình
Nguy
cơ một người bị ung thư vú cao hơn nếu người mẹ, chị hoặc em gái của họ mắc ung
thư vú, đặc biệt ở tuổi trẻ (trước 40 tuổi). Có các người thân khác bị ung thư
vú về phía gia đình mẹ hoặc bố cũng có thể tăng nguy cơ ung thư vú. Nghiên cứu
tại Mỹ cho biết chỉ 10% các phụ nữ mắc ung thư vú có tiền sử gia đình bị ung
thư vú. Nguy cơ liên quan với tuổi của người mẹ (hoặc chị) và một hay hai bên
vú bị ung thư.
Mẹ của
bệnh nhân
|
Nguy
cơ thời gian sống
Nguy
cơ của bệnh nhân (so với phụ nữ không có lịch sử gai đình ung thư vú)
|
Trước
mãn kinh
Sau mãn
kinh
|
Một
vú bị ung thư
>3,0
lần
>1,5 lần
|
Trước
mãn kinh
Sau mãn
kinh
|
Hai
vú bị ung thư
>9,0
lần
>4,0
lần
|
Các
đột biến di truyền của ung thư vú
Có
từ 3% đến 10% các ung thư vú có thể liên quan với những thay đổi hoặc trong gen
ung thư biểu mô vú 1 (BRCA-1) hoặc gen ung thư biểu mô vú 2 (BRCA-2).
Người
phụ nữ có thể thừa kế các đột biến di truyền này từ bố mẹ và cần thử các đột
biến này nếu có tiền sử gia đình ung thư vú đặc biệt nặng (nghĩa là nhiều người
thân bị ung thư, đặc biệt nếu họ bị ung thư trước 50 tuổi).
Một
phụ nữ có mang đột biến này có nguy cơ cao mắc ung thư vú.
Các
thành viên trong gia đình có người bị đột biến gen ung thư biểu mô vú cần được
thử xem có đột biến này không. Trong các gia đình có nhiều người phụ nữ mắc
bệnh, các xét nghiệm di truyền đôi khi có thể chứng minh sự có mặt cảu các thay
đổi di truyền. Các cán bộ y tế có thể gợi ý các phương pháp để làm giảm nguy cơ
mắc ung thư vú hoặc cải thiện việc phát hiện bệnh ở những phụ nữ có những thay
đổi này trong gen của họ.
Một
phụ nữ có đột biến một trong hai gen này cần được khám sàng lọc ung thư vú
thường xuyên hơn, thậm chí ở một số nước người phụ nữ còn được cắt bỏ vú để làm
giảm nguy cơ mắc ung thư vú.
Lịch
sử chửa đẻ và kinh nguyệt
•
Phụ nữ già hơn khi họ có con đầu
lòng, nguy cơ ung thư vú lớn hơn.
•
Phụ nữ bắt đầu hành kinh (có kinh
nguyệt lần đầu) ở tuổi trẻ (trước tuổi 12), mãn kinh muộn (sau tuổi 55) và
không bao giờ có con cũng tăng nguy cơ ung thư vú.
•
Phụ nữ được điều trị hormon mãn kinh
(hoặc chỉ dùng estrogen hoặc dùng estrogen kết hợp với progestin) trong 5 năm
hoặc lâu hơn sau mãn kinh cũng tăng nguy cơ ung thư vú.
•
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã tìm
hiểu liệu xảy thai hoặc phá thai có ảnh hưởng đến nguy cơ người phụ nữ mắc ung
thư vú vào giai đoạn muộn sau này. Những nghiên cứu lớn đã chứng minh rằng
không có liên quan giữa xảy thai hoặc phá thai với sự phát sinh ung thư vú.
Chủng tộc
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy ung thư vú
thường xảy ra ở những phụ nữ da trắng hơn so với phụ nữ Mỹ nguồn gốc Latin,
châu Á hoặc châu Phi.
Xạ trị
thành ngực
Các phụ nữ bị xạ trị thành ngực (bao
gồm cả hai vú) trước tuổi 30 có nguy cơ ung thư
vú tăng (bao gồm cả các phụ nữ được xạ trị để điều trị bệnh Hodgkin). Những
nghiên cứu cũng đã chỉ rõ rằng các phụ nữ được xạ trị khi càng trẻ nguy cơ mắc
ung thư vú cao hơn vào giai đoạn muộn của đời sống.
Mật độ vú
Những phụ nữ già hơn có mô vú đặc hơn
(không có mô mỡ) trên hình chụp vú có tăng nguy cơ ung thư vú.
Béo phì
sau mãn kinh
Đến
nay ngày càng có nhiều bằng chứng là cân nặng tăng quá mức có thể gây ung thư
vú. Có gợi ý là lượng mỡ tiêu thụ có thể là một yếu tố nguy cơ. Không quá 25%
calo trong khẩu phần ăn có thể có nguồn gốc từ mỡ. Sau mãn kinh, các phụ nữ béo
phì có tăng nguy cơ phát sinh ung thư vú. Bị béo phì có nghĩa là phụ nữ có tỷ
lệ mỡ của cơ thể cao một cách bất thường. Vì cơ thể sản xuất một số estrogen
(một hormon) trong mô mỡ, những phụ nữ béo phì có mức estrogen trong cơ thể cao
hơn những phụ nữ gày. Tăng mức estrogen có thể là lý do làm các phụ nữ béo phì
tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Một số nghiên cứu cũng chỉ rõ rằng tăng cân sau
mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Không
luyện tập thể lực
Các
phụ nữ không luyện tập thể lực trong đời hình như có tăng nguy cơ ung thư vú.
Luyện tập thể lực có thể giúp làm giảm nguy cơ bằng dự phòng tăng cân và béo
phì.
Hút
thuốc lá
Không
có bằng chứng là hút thuốc lá gây ung thư vú. Tuy nhiên người ta đã tìm thấy là
khi một ung thư vú phát sinh ở một phụ nữ hút thuốc lá, bệnh ở giai đoạn muộn
hơn và tiên lượng xấu hơn ở những bệnh nhân không hút thuốc
lá. Ở Việt nam tỷ lệ phụ nữ hút thuốc
lá thấp nên càng khó xác định ảnh hưởng này.
Rượu
Có
nhiều tranh luận về rượu có làm phát sinh ung thư vú hay không. Không tìm thấy
liên quan của lượng rượu uống và không xác định được sự liên quan. Nếu có liên
quan thì cũng chỉ là liên quan yếu.
Hormon
ngoại sinh
Hormon
ngoại sinh là hormon không phải của cơ thể sản xuất ra. Những phụ nữ sử dụng
thuốc tránh thai và sử dụng estrogen sau mãn kinh không làm tăng nguy cơ phát
sinh ung thư vú.
Sang chấn
tâm lý (stress) và cá nhân
Sang
chấn tâm lý (stress) và tức giận đã được chứng minh là yếu tố ảnh hưởng đến sức
khoẻ, chẳng hạn như ung thư có thể liên quan đến xúc cảm.
Bệnh xơ
nang và nguy cơ ung thư vú
Bệnh
xơ nang là danh từ để chỉ nhiều tổn thương vú lành tính. Mô vú được lấy ra
trong hầu hết các sinh thiết vú không phải là ung thư hoặc tổn thương tiền ung
thư (tổn thương dẫn đến ung thư). Khoảng 96% tất cả các mô được lấy ra là mô vú
lành tính và không có nguy cơ phát sinh thành ung thư vú.
Khi
mô tiền ung thư được lấy ra, nó có giá trị như một dấu hiệu cảnh báo với cả
bệnh nhân và bác sĩ. Mô này là mô phát triển nhanh hơn (tăng sinh) và có thể
phát triển thành các hình thái không bình thường (không điển hình). Nếu có tiền
sử gia đình ung thư vú và mô vú được sinh thiết có hình thái tăng sinh hoặc
không điển hình, có tăng nguy cơ phát sinh ung thư vú.
Bệnh
|
Nguy cơ
(so với các phụ nữ có mô vú bình thường)
|
Mô vú bình
thường
Tăng
sinh
Không
điển hình
|
Không có
tiền sử gia đình
Không có
tăng nguy cơ
>1,5
lần
>3,0
lần
|
Mô vú
bình thường
Tăng
sinh
Không
điển hình
|
Có tiền
sử gia đình
Không có
tăng nguy cơ
>3,5
lần
>8,9
lần
|
Khi
mô vú được tìm thấy là tăng sinh hoặc
không điển hình, bệnh nhân và bác sĩ
sử dụng thông tin này để làm giảm nguy cơ phát sinh ung thư vú trong tương lai.
Nguy
cơ của ung thư vú có thể chia thành các nguy cơ bạn không thể thay đổi được
hoặc các nguy cơ có thể thay đổi được.
Một số các yếu tố nguy cơ có thể làm
tăng nguy cơ ung thư vú mà bạn không thể làm thay đổi được như:
•
Là phụ nữ (ung thư vú rất hiếm xảy
ra ở nam giới),
•
Tuổi già
•
Có lịch sử gia đình ung thư vú (có
mẹ, chị hoặc con gái bị ung thư vú làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư vú của
bạn).
•
Có tiền sử bị ung thư vú từ trước.
•
Đã bị điều trị tia xạ vùng ngực.
•
Bắt đầu hành kinh sớm (trước 12
tuổi).
•
Mãn kinh muộn (sau 50 tuổi).
•
Không có con hoặc có con khi bạn
trên 30 tuổi.
•
Có đột biến di truyền làm tăng nguy
cơ ung thư vú.
Một
số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ có thể thay đổi được bao
gồm:
•
Dùng thuốc thay thế hormon (sử dụng
lâu dài estrogen với progesteron làm tăng nhẹ nguy cơ ung thư vú).
•
Dùng thuốc tránh thai làm tăng rất
nhẹ nguy cơ ung thư vú và nguy cơ này mất đi sau khi dùng thuốc trên 10 năm.
•
Không cho con bú.
•
Uống 2 đến 5 chén rượu một ngày.
•
Quá nặng cân, đặc biệt sau tuổi mãn
kinh.
•
Không luyện tập.
Tất
cả các yếu tố nguy cơ có thể làm thay đổi này gần như không quan trọng như
tuổi, giới và lịch sử gia đình, nhưng chúng là các yếu tố mà người phụ nữ có
thể có thể kiểm soát được, có thể làm giảm nguy cơ phát sinh ung thư vú.
Cũng
nên nhớ rằng tất cả các yếu tố này dựa trên cơ sở tương đối và một số người
không có các yếu tố nguy cơ này cũng có thể mắc ung thư vú.
Việc
sàng lọc chặt chẽ và phát hiện sớm bệnh là vũ khí tốt nhất để làm giảm tỷ lệ tử
vong vì bệnh này.
Làm thế
nào để dự phòng được ung thư vú?
Các
yếu tố nguy cơ quan trọng nhất làm phát sinh ung thư vú không thể được kiểm
soát bởi cá nhân.
Có
một số yếu tố nguy cơ kết hợp với nguy cơ tăng nhưng không có mối liên quan
nguyên nhân và hiệu quả rõ rệt (mối liên hệ nhân quả).
Có
một số ít yếu tố nguy cơ có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển của ung thư vú
có thể được thay đổi bởi người phụ nữ.
Nếu có thể được, người phụ nữ có thể
tránh điều trị hormon thay thế kéo dài, có con trước 30 tuổi, cho con bú, tránh
tăng cân bằng việc luyện tập và có chế độ ăn hợp lý, hạn chế uống rượu 1 lần
một ngày hoặc ít hơn
.
Với
những phụ nữ có sẵn nguy cơ cao, nguy cơ phát sinh ung thư vú của họ có thể
giảm 50% bằng cách dùng một loại thuốc được gọi là Tamoxifen trong 5 năm.
Tamoxifen
có thể có một số tác dụng phụ (như bốc nóng và tiết dịch âm đạo). Các tác dụng
phụ này thường không nghiêm trọng và một số tác dụng phụ không phổ biến (như
hình thành cục đông máu, tắc mạch phổi, đột quỵ và ung thư tử cung) gây nguy
hiểm đến tính mạng.
Tamoxifen
không được sử dụng rộng rãi để phòng bệnh, nhưng có thể có lợi trong một số
trường hợp.
Có
một số tài liệu gợi ý là vitamin A có thể bảo vệ chống ung thư vú nhưng cần có
các nghiên cứu tiếp trước khi nó có thể được đưa vào khuyên nên dùng để dự
phòng ung thư vú.
Có
một số thuốc khác đang được nghiên cứu để dự phòng ung thư vú bao gồm
phytoestrogen (estrogen gặp trong tự nhiên với số lượng cao trong đậu tương),
vitamin E, vitamin C và các thuốc khác. Những thử nghiệm tiếp về các chất này
là cần thiết trước khi chúng được khuyên dùng để để dự phòng ung thư vú.
Ngay
bây giờ, điều quan trọng nhất mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng có thể làm giảm
nguy cơ chết vì ung thư vú là phải học tự khám vú, đi khám vú đều đặn và nếu có
điều kiện, chụp X quang (chụp phim) vú
.
SÀNG LỌC UNG THƯ VÚ
SÀNG LỌC
UNG THƯ NÓI CHUNG LÀ GÌ?
Sàng
lọc là phát hiện ung thư ở một người không có bất cứ triệu chứng gì. Sàng lọc
có thể giúp phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm. Khi mô bất thường hoặc ung thư
được phát hiện ở giai đoạn sớm, nó có thể được chữa khỏi dễ dàng. Vào thời điểm
các triệu chứng xuất hiện, ung thư có thể đã bắt đầu lan tràn.
Các
nhà khoa học đang cố gắng hiểu rõ hơn những người nào dễ bị một số typ ung thư.
Họ cũng cố gắng nghiên cứu những việc chúng ta làm và những vật quanh chúng ta
để biết liệu chúng có gây ung thư không. Những thông tin này giúp bác sĩ khuyên
ai cần sàng lọc ung thư, xét nghiệm sàng lọc nào cần được sử dụng, và các xét
nghiệm sàng lọc cần được tiến hành thường xuyên như thế nào.
Điều
quan trọng bạn cần hiểu là bác sĩ của bạn không nhất thiết phải nghĩ là bạn
đang mắc ung thư khi họ yêu cầu bạn thực hiện một xét nghiệm sàng lọc
nào đó. Các xét nghiệm sàng lọc được
yêu cầu khi bạn không có triệu chứng ung thư.
Nếu
các xét nghiệm sàng lọc là bất thường, bạn có thể được yêu cầu làm một số xét
nghiệm để tìm xem liệu bạn có ung thư hay không.
Với
nhiều loại ung thư, nhờ những tiến bộ trong việc sàng lọc ung thư và điều trị,
đã có nhiều hứa hẹn trong việc chẩn đoán sớm và tỷ lệ chữa khỏi bệnh cao. Thuật
ngữ sàng lọc để chỉ việc sử dụng đều đặn một số phương thức thăm khám hoặc xét
nghiệm ở những người không có triệu chứng của một ung thư nhưng có nguy cơ cao
với ung thư đó, điều này có nghĩa là họ có một số đặc điểmhay tiếp xúc (phơi nhiễm) được gọi là các yếu tố nguy cơ làm cho
họ dễ mắc typ ung thư này hơn so với những người không có các yếu tố nguy cơ
này.
Các
yếu tố nguy cơ khác nhau với các typ khác nhau của ung thư. Việc cảnh báo các
yếu tố nguy cơ này là quan trọng bởi vì: 1) một số các yếu tố nguy cơ có thể bị
thay đổi (như hút thuốc và chế đọ ăn), điều này làm giảm nguy cơ phát sinh ung
thư kết hợp với các yếu tố này; 2) những người có nguy cơ phát sinh một ung thư
có thể thường phải trải qua các biện pháp sàng lọc đều đặn được đề nghị cho typ
ung thư này.
Các
nhà nghiên cứu đang tiếp tục nghiên cứu các đặc điểm nổi bật hoặc phơi nhiễm
nào kết hợp với tăng nguy cơ của các loại ung thư khác nhau, cho phép sử dụng
các biện pháp dự phòng, phát hiện sớm và chiến lược điều trị có hiệu quả hơn.
Ví dụ trong khi các phụ nữ trên 40 tuổi phải được sàng lọc thường quy ung thư
vú, các phụ nữ có nguy cơ cao phát sinh ung thư này phải được bắt đầu quá trình
sàng lọc ở tuổi sớm hơn và với số lần sàng lọc lớn hơn. Việc tăng cường theo
dõi có thể làm tăng khả năng ung thư được phát hiện ở giai đoạn sớm hơn và được
chữa khỏi hoàn toàn.
Phương
pháp khám sàng lọc nào là thích hợp?
Ung
thư vú càng được phát hiện sớm thì khả năng chữa khỏi càng lớn. Vì vậy các biện
pháp thích hợp nhất là tự khám vú, khám lâm sàng lọc do bác sĩ thực hiện và
chụp X quang vú. Ở các nước phát triển, chụp X quang vú được coi là biện pháp
hàng đầu.
TỰ
KHÁM VÚ
Tự
khám vú là cách quan trọng nhất và có hiệu quả nhất để phát hiện ung thư vú.
Trên 90% các trường hợp ung thư vú có thể được phát hiện bằng tự khám vú. Nếu
tự khám vú hàng tháng, người phụ nữ có thể phát hiện được các cục u, những thay
đổi kín đáo hoặc sự dày lên của vú. Cần nhớ rằng nếu được phát hiện sớm, hầu
hết các ung thư vú có thể được chữa khỏi.
Những
phụ nữ tự khám vú và tìm thấy ung thư vú có thời gian sống thêm (thời gian sống
tính từ sau điều trị) tốt hơn so với những phụ nữ không thực hiện tự khám vú.
Vì vậy cần tự khám vú vào 3 - 7 ngày sau khi hành kinh bắt đầu. Nếu tự khám vú
trước hành kinh có thể tìm thấy nhiều thay đổi có thể gây hoảng sợ cho bạn.
Nếu
người phụ nữ không còn hành kinh đã lâu, nên chọn một ngày có thể nhớ dễ dàng như
ngày đầu của tháng để tự khám vú một cách đều đặn.
Tự
khám vú như thế nào?
QUAN
SÁT VÚ
Đứng
hoặc ngồi trước gương. Đầu tiên nhìn vào vú của mình với tay để chống bên cạnh
sườn và rồi để hai tay trên đầu. Sau đó để hai tay trên hông và ép mạnh để làm
gấp các cơ ngực. Sau đó cúi người về phía trước gương ở tư thế có
hay không gấp các cơ ngực. Sau đó quay
về các phía có hay không giơ cao cánh tay.
Tìm
kiếm gì?
Những thay
đổi về kích thước của vú
Bình
thường một vú lớn hơn vú bên kia. Cần biết rõ vú nào lớn hơn vì ung thư có thể
làm tăng hoặc giảm kích thước của vú. Quan sát để phát hiện bất cứ một thay đổi
nào về kích thước.
Thay đổi
của bờ vú
Ung
thư vú có thể làm thay đổi vùng rìa của vú. Nó làm mất đường rìa bình thường
hoặc có thể gây nên chỗ lõm hoặc co kéo da vú (có thể giống như một nếp gấp của
cái áo).
Thay
đổi của núm vú
Ung
thư có thể làm chuyển hướng núm vú về một phía khác hoặc làm tụt
núm vú vào trong. Núm vú cũng có thể
biểu hiện viêm hoặc loét không khỏi được.
KHÁM
BẰNG TAY
Vùng
nào của vú cần được khám
Các
bờ vú
Bờ dưới Bờ dưới là đáy của đường nịt vú (áo con)
Bờ trên Xương đòn và xương vai ở phía trên
Bờ giữa Một đường kẻ xuống giữa xương ức
Bờ
bên Một đường kẻ xuống từ giữa hố
nách bao gồm cả vùng ngoài của chỗ đầy nhất của vú
Vùng nào của ngón tay được sử dụng
để sờ nắn vú?
Sử
dụng phần phẳng của ba đầu ngón tay giữa. Toàn bộ vùng từ khớp cuối cùng đến
đầu tận cùng của ngón tay cần áp sát vào da vú (Hình 14).
Lượng mô
vú cần được khám mỗi lần
Ở
mỗi điểm khám, dừng lại và di chuyển phần phẳng của các ngón tay trên ba vòng
nhỏ, đường kính khoảng hai đốt ngón tay (bằng đồng tiền kim loại). Mỗi vòng
phải được sử dụng với các lực ấn khác nhau.
Sử dụng
lực ấn như thế nào
U
vú có thể xảy ra ở bất cứ độ sâu nào và những u vú di chuyển được có thể bị bỏ
sót bởi vì nó dễ dàng bị đẩy ra một vị trí khác. Vì vậy nên sử dụng ba mức độ
lực ấn khác nhau để xác định mỗi điểm một cách thận trọng.
Vòng đầu
tiên
Sử
dụng lực ấn rất nhẹ trong vòng đầu tiên. Lực này đủ để di chuyển da mà không
làm di chuyển mô ở dưới. Cần nhớ rằng đè ấn quá mạnh ở vòng đầu tiên có thể làm
u vú di chuyển khỏi khu vực khám.
Vòng thứ
hai - lực ấn trung bình
Trong
vòng thứ hai, ấn nửa độ sâu vào mô vú. Phải đảm bảo ngón tay phẳng và bám sát
vào mô vú.
Vòng thứ
ba - ấn sâu
Để
tìm các cục u vú nằm sâu trong mô vú (hoặc gần thành ngực), ấn mạnh đến mức bạn
cảm thấy khó chịu ở vòng thứ ba. Phần lớn phụ nữ có thể sờ thấy xương sườn
trong lần ấn sâu cuối cùng này.
Khám vú ở
tư thế như thế nào
TƯ THẾ KHÁM THỨ NHẤT
Khi
bạn nằm ở tư thế lưng phẳng, phần lớn mô vú xệ xuống phía cạnh. Đây là vị trí
khó khám nhất khi bạn nằm phẳng lưng. Khó khăn vì khoảng một phần tư mô vú nằm
ở phía trên ngoài của vú.
Để
tư thế để khám vùng này của vú sao cho mô vú dàn đều trên khung xương sườn của
bạn. Xoay nghiêng mình và co chân lại sao cho phần khung chậu vuông góc với mặt
giường. Sau đó ngả vai về phía ngoài và đặt tay lên đầu. Có thể đặt một cái gối
dưới lưng để tạo tư thế thoải mái.
Bằng
cách làm như vậy mô vú có thể được phân bố đều trên khung xương sườn, không bị
dồn về phía ngoài. Bạn sẽ ở tư thế đúng khi núm ở vị trí cao nhất trên khối mô
vú.
Tìm cục u
vú như thế nào?
Bây giờ bạn đã
ở tư thế đầu tiên để tự khám vú, bạn bắt đầu việc tìm kiếm u vú.
Sử
dụng ba vòng ấn, bắt đầu khám từ đỉnh hố nách, di chuyển xuống dưới và lên trên
theo các đường song song. Cần nhớ là không bỏ sót bất kỳ một khoảng nào giữa
các vòng ấn và các đường lên xuống.
Khi
di chuyển đến cuối đường lên xuống, di chuyển một khoảng rộng bằng một đốt ngón
tay và bắt đầu đường khám kế tiếp. Các đường khám có thể hơi chờm lên nhau để
đảm bảo chắc chắn là không bỏ sót vùng mô vú nào giữa các đường khám. Cần đảm
bảo để đường khám lên đến tận vai hoặc xương đòn và xuống đến tận đáy của đường
nịt vú.
TƯ THẾ KHÁM THỨ HAI
Khi
đường khám lên xuống đạt đến núm vú, cần thiết lập tư thế khám thứ hai. Giữ các
ngón tay tại chỗ (ở núm vú) và quay lại vị trí nằm phẳng lưng trên giường, tay
ở bên vú đang khám dang thẳng vuông góc với cơ thể. Bây giờ tiếp tục khám theo
các đường lên xuống cho đến khi bạn khám một đường đi xuống ở giữa xương ức.
Cuối
cùng khám theo ba hay bốn đường ngang theo bờ trên của mô vú, bắt đầu dọc theo
xương đòn.
Cần phải
sờ nắn thấy gì?
Khi
tự khám vú, người phụ nữ cần nhớ rằng vú của mỗi phụ nữ khác nhau và những thay
đổi có thể xảy ra do tuổi, chu kỳ kinh, có mang, mãn kinh hoặc dùng thuốc tránh
thai hoặc các nội tiết tố khác. Đôi khi có thể sờ thấy ở vú có những cục nhỏ.
Vú của phụ nữ cũng thường cương to trước khi hành kinh.
Ung
thư vú có thể được tìm thấy như một cục u cứng, duy nhất, không đau ở vú. Những
thay đổi kín đáo trong mô vú của bạn (nếu bạn "biết" rõ vú của mình
qua các lần khám trước) có thể là dấu hiệu đầu tiên của ung thư vú. Việc tự
khám vú hàng tháng là quan trọng. Như vậy bạn có cơ hội tự khám vú 12 lần trong
một năm. Điều đó giúp cho bạn biết rất kỹ về vú của mình.
Bạn
phải làm gì nếu bạn tìm thấy một u vú hoặc một thay đổi bất thường?
Cần
nhớ rằng hầu hết các u vú không phải là ung thư vú. Nếu bạn sờ thấy một biến
đổi gì đó ở vú, trước hết bạn hãy kiểm tra vú bên kia ở cùng một vùng. Nếu bạn
thấy hai bên giống nhau, đó là một dấu hiệu tốt chứng tỏ "những biến
đổi" bạn phát hiện được thực ra chỉ là một phần bình thường của vú. Nếu
bạn thấy hai bên không giống nhau, cần định rõ vị trí và chỉ cho bác sĩ khi bạn
đi khám bệnh. Cần nói rõ với bác sĩ bạn tìm thấy gì.
Ngoài
ra cũng cần lưu ý là tự khám vú không thể thay thế chụp vú đều đặn để sàng lọc
ung thư vú và khám lâm sàng.
KHÁM VÚ
Trong
khi khám lâm sàng, bác sĩ hoặc nhân viên y tế sẽ khám vú trong khi người phụ nữ
đứng hay ngồi và nằm. Người phụ nữ có thể được yêu cầu đặt hai tay lên đầu hoặc
chống hai tay vào hai bên mạng sườn.
Người
khám vú sẽ quan sát sự khác biệt giữa các vú bao gồm cả sự khác biệt về hình
dạng và kích thước. Da vú sẽ được kiểm tra xem có bị nổi mụn, lõm
da hoặc các biến đổi bất thường khác.
Núm vú có thể được ép nhẹ xem có dịch không.
Sử
dụng các đầu ngón tay để khám, bác sĩ hoặc nhân viên y tế sẽ kiểm tra xem có
các u ở vú không. Người khám vú sẽ kiểm tra toàn bộ vú, vùng hố nách và vùng
xương đòn, khám từng bên của vú. Một cục u thường lúc đầu có kích thước bằng
một hạt đậu. Nhìn chung, vú phụ nữ Việt nam thường nhỏ, nên bác sĩ có thể dễ
dàng phát hiện các khối u khi còn có kích thước rất nhỏ. Các hạch bạch huyết sẽ
được kiểm tra xem có bị xưng to không.
Khi nào phải đi khám vú?
Cách
tốt nhất là giữa các lứa tuổi 20 đến 39 tuổi, mỗi phụ nữ phải được khám lâm
sàng vú 3 năm một lần, sau tuổi 40 mỗi phụ nữ phải được khám vú mỗi năm một
lần.
Nhiều
phụ nữ cần được khám vú thường xuyên hơn tuỳ thuộc vào tiền sử bệnh và kết quả
tự khám vú.
Vào
bất cứ thời điểm nào khi một thay đổi ở vú xảy ra khác với khi tự khám bình
thường, bạn cần đi khám vú.
Trong
khi khám lâm sàng vú, người phụ nữ có thể học cách tự khám vú.
Mỗi
phụ nữ phải tự khám vú mỗi tháng một lần vào khoảng một tuần sau khi kết thúc
hành kinh. Nếu tìm thấy bất cứ thay đổi nào phải đi khám vú. Việc
tự khám vú của bạn hàng tháng là quan
trọng nhất để có thể phát hiện ung thư vú sớm.
Bác sĩ sẽ
làm gì?
Sau
khi đã xác định được một biến đổi bất thường, bạn cần đi khám vú càng sớm càng
tốt. Bác sĩ sẽ muốn biết thay đổi ở vú bạn xảy ra từ bao giờ và bạn có ghi nhận
được những thay đổi nào khác không.
Bạn
sẽ được hỏi về chu kỳ kinh nguyệt, tình trạng chửa đẻ, bạn đã dùng hoặc đang
dùng một loại nội tiết tố nào đó hoặc bạn có tiền sử gia đình ung thư vú không.
Tất
cả các bệnh nhân có khối u ở vú sẽ được hỏi kỹ hơn về tiền sử (lịch sử trước
đó). Lịch sử khối u sẽ cung cấp những thông tin có giá trị. Các câu hỏi có thể
bao gồm:
•
Khối u có từ bao giờ?
•
U có đau không?
•
Có chảy dịch núm vú không?
•
Khối u có xuất hiện hoặc biến mất
vào các thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh không?
Các
thông tin khác bao gồm tiền sử có sinh thiết vú hoặc bệnh vú lành tính từ
trước, lịch sử chửa đẻ, và lịch sử gia đình về ung thư vú.
Khi
khám, bác sĩ sẽ đánh giá mật độ của khối u, u di động hay cố định, vùng rìa
khối u đều hay gồ ghề, những thay đổi của da vú gồm đỏ, phù, co rúm. Các hạch
bạch huyết nách, trên và dưới xương đòn sẽ được khám xem có dấu hiệu bị tổn
thương không.
Bác sĩ sẽ
chỉ định một xét nghiệm nào đó?
Các
xét nghiệm sẽ được chỉ định chỉ sau khi bác sĩ đã hỏi lịch sử bệnh và khám kỹ
vú của bạn. Các xét nghiệm này có thể bao gồm chụp X quang vú, chụp nhiệt (xét
nghiệm này không phổ biến ở Việt nam), và/hoặc siêu âm. Sau các xét nghiệm này
có thể thực hiện xét nghiệm tế bào học chọc hút kim nhỏ. Chọc hút kim nhỏ có
thể được thực hiện ngay cả khi sinh thiết sẽ được tiến hành vì nó cung cấp
thông tin cho việc lập kế hoạch sinh thiết.
CHỤP X
QUANG VÚ SÀNG LỌC
Chụp
X quang bằng một máy chuyên dụng sử dụng tia X liều thấp để chụp vú gọi là chụp
vú
Chụp
X quang vú rất đơn giản, vú được đặt giữa hai tấm kim loại và chiếu
tia X qua, phim chụp sẽ ghi lại các
hình ảnh bất thường để bác sĩ phân tích, chẩn đoán.
Chụp
vú thường phát hiện được các u trước khi nó được sờ nắn thấy và cũng có thể
phát hiện được các chấm vôi nhỏ (vôi hoá) có thể là dấu hiệu sớm của ung thư.
Các ung thư nhỏ dưới 5 mm đường kính có thể được xác định bằng phương pháp này.
Các ung thư mới này có thể quá nhỏ để có thể phát hiện được khi khám bằng tay.
Phần
lớn các ung thư vú đều kết hợp với hình ảnh chụp vú bất thường.

Vì sao phải chụp X quang vú?
Chụp
X quang vú có thể phát hiện được ung thư vú trước khi nó có thể được sờ nắn
thấy. Một ung thư có thể nhìn thấy trên hình chụp vú như một khối hoặc các hình
vôi hoá vi thể. Nếu một ung thư nhỏ được tìm thấy trên hình chụp vú, nó có thể
dễ dàng được chữa khỏi hoàn toàn. Nhờ sử dụng hình chụp vú như một phương pháp
sàng lọc để phát hiện ung thư vú có thể làm giảm 30% tử vong do ung thư vú.
Nếu
một u được phát hiện, hình chụp vú sẽ giúp bác sĩ của bạn xác định u đó là
không ung thư (lành tính) hay ung thư (ác tính). Tuy nhiên nếu hình chụp vú là
bình thường, bác sĩ có thể yêu cầu sinh thiết u hay một vùng nghi ngờ. Cũng cần
nhớ rằng không phải tất cả các ung thư sẽ thấy được trên hình chụp vú và hiểu biết
về lâm sàng trở nên rất quan trọng.
Chụp vú có gây ung thư không?
Nhiều
phụ nữ cho rằng chụp vú gây ung thư. Ngày nay với việc chụp vú liều thấp, khối
lượng tia xạ dùng chỉ tương ứng với các ảnh hưởng sau đây:
1. Hút hai điếu thuốc lá
2. Uống 1 lít rượu vang
3. Ở hai ngày ở các vùng nắng gió
4. Bay 150 km bằng máy bay
5. Hành trình bằng xe ca 200 km
Như
vậy chụp vú hoàn toàn không có hại vì liều tia xạ sử dụng trong chụp vú rất
thấp (nhỏ). Bạn có thể yên tâm chụp vú rất nhiều lần trong đời.
Tuổi nào cần chụp vú?
1.
Vào bất cứ tuổi nào nếu có một u vú
nghi ngờ là ung thư.
2.
Nếu có tiền sử gia đình dương tính
(nghĩa là có mẹ hay chị bị ung thư vú) cần chụp vú vào các tuổi 30.
3.
Chụp vú sàng lọc để phát hiện sớm
ung thư bắt đầu từ tuổi 35 đến 40.
4.
Chụp vú sàng lọc hàng năm nếu bác sĩ
chăm sóc sức khoẻ cho bạn yêu cầu vào lứa tuổi 40 - 50.
5.
Chụp vú hàng năm bắt đầu từ sau tuổi
50.
Cần nhớ là chụp vú lần đầu được sử
dụng làm cơ sở cho việc đánh giá những
lần chụp vú sau. Chụp vú lần đầu có thể giúp phát hiện xem có ung thư không và
sẽ được sử dụng để so sánh với những thay đổi xảy ra trong những lần chụp vú
sau.
Chụp vú có đau không?
Khi
chụp vú cần ép nhẹ mô vú. Lực ép này có thể so sánh với cảm giác lực ép của máy
đo huyết áp. Nó có thể gây đau nhẹ với một số phụ nữ. Để làm giảm cảm giác đau,
thời gian chụp vú tốt nhất là 3 đến 7 ngày sau khi hành kinh bắt đầu. Đây là
thời gian vú ít bị căng nhất.
Ở
một số nước phát triển có tỷ lệ mắc ung thư
vú cao, phụ nữ phải chụp vú hàng năm để sàng lọc phát hiện sớm ung thư
bắt đầu từ tuổi 40. Các phụ nữ có đột biến di truyền làm tăng nguy cơ ung thư
vú và có lịch sử gia đình ung thư vú còn được bắt đầu chụp X quang vú sàng lọc
sớm hơn. Chụp vú trong các khoảng thời gian 6 tháng được áp dụng cho các phụ nữ
trẻ hơn có nguy cơ phát sinh ung thư vú vì họ có xu hướng mắc các ung thư vú
phát triển nhanh hơn.
Nhiều
nghiên cứu được tiến hành trên thế giới đã chứng minh rằng sàng lọc ung thư vú
bằng chụp vú làm giảm số tử vong của ung thư vú ở những phụ nữ tuổi từ 40 - 69,
đặc biệt ở những phụ nữ trên 50 tuổi. Tuy nhiên những nghiên cứu được tiến hành
đến nay không chứng minh được lợi ích của chụp vú sàng lọc đều đặcn ở những phụ
nữ dưới 40 tuổi.
Những
hạn chế của chụp vú sàng lọc ung thư. Chụp vú là phương pháp tốt nhất để bác sĩ
tìm ung thư vú sớm. Tuy nhiên bạn cần nhớ rằng:
•
Mặc dù chụp vú có thể tìm thấy u
không thể sờ nắn thấy, tìm thấy một u nhỏ không có nghĩa là sẽ cứu được bệnh
nhân. Chụp vú có thể không giúp ích gì cho một phụ nữ có một ung thư phát triển
nhanh hoặc xâm lấn đã lan tràn tới các phần khác của cơ thể trước khi được phát
hiện.
•
Chụp vú vẫn có thể bỏ sót một số ung
thư đang có tại vú. Kết quả này được gọi là "âm tính giả". Âm tính
giả xảy ra khi hình chụp vú bình thường trong khi thực chất bệnh nhân đang có
một tung thư. Nói chung chụp vú có thể bỏ sót tới 20% ung thư vú có mặt vào
thời điểm chẩn đoán. Âm tính giả thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ hơn là ở
những phụ nữ già vì vú của người trẻ thường đặc trên hình chụp vú làm cho việc
phát hiện ung thư khó khăn. Khi người phụ già hơn, vú của họ thường nhiều mỡ
hơn (và vì vậy ít đặc hơn) và ung thư vú trở nên dễ dàng phát hiện hơn trên
hình chụp vú sàng lọc.
•
Chụp vú cũng có thể có các kết quả
là ung thư, nhưng thực ra đó không phải là ung thư thực sự. Kết quả này dược
gọi là "dương tính giả". Dương tính giả xảy ra khi hình chụp vú được
bác sĩ X quang đọc là bất thường nhưng hiện tại không có ung thư. Mặc dù tất cả
các hình chụp vú bất thường cần được theo dõi với các xét nghiệm phụ thêm (chụp
X quan vú chẩn đoán, siêu âm và/hoặc sinh thiết, hầu hết các biến đổi bất
thường qua đi không phải là ung thư. Dương tính giả là phổ biến ở một số phụ nữ
trẻ, các phụ nữ đã có sinh thiết vú lần trước, các phụ nữ có lịch sử gia đình
ung thư vú và các phụ nữ có dùng estrogen (ví dụ điều trị estrogen thay thế).
Chụp vú có thể phát hiện được ung thư biểu mô ống tại chỗ
Trên
30 năm qua, việc cải tiến trong việc chụp X quang vú đã cho phép phát hiện một
số lớn các biến đổi bất thường được gọi là ung thư biểu mô ống tại chỗ. Ung thư
biểu mô ống tại chỗ có chứa các biến đổi bất thường khu trú ở các ống sữa của
vú. Các tế bào không xâm nhập vào mô vú xung quanh. 80 % các trường hợp ung thư
biểu mô ống tại chỗ được phát hiện qua hình chụp vú vì ung thư biểu mô ống tại
chỗ thường không gây nên cục u có thể sờ thấy được. Một số các trường hợp này
về sau tiến triển thành ung thư biểu mô
xâm nhập. Tại Việt nam, do chưa có chương trình sàng lọc ung thư vú bằng chụp X
quang vú nên còn
hiếm các trường
hợp được phát hiện qua chụp X quang vú chẩn đoán tại bệnh viện.
Đến
nay cũng chưa thể dự báo trường hợp ung thư biểu mô ống tại chỗ nào sẽ tiến
triển thành ung thư biểu mô ống xâm nhập. Vì vậy ung thư biểu mô ống tại chỗ
thường được lấy bỏ bằng phẫu thuật. Đến nay ung thư biểu mô ống tại chỗ thường
được điều trị bằng cắt bỏ vú, tuy nhiên đến nay cũng có nhiều phụ nữ được điều
trị bảo tồn ung thư biểu mô ống tại chỗ. Xạ trị có hay không dùng tamoxifen
cũng được áp dụng.
CÁC
TRIỆU CHỨNG CỦA UNG THƯ VÚ
Giai
đoạn sớm của ung thư vú thường không có dấu hiệu gì. Đó là lý do vì sao phải
sàng lọc ung thư vú. Khi u đã phát triển và đã có kích thước, u có thể gây các
triệu chứng sau đây:
•
Hình thành cục u hoặc có sự dày lên
của vùng vú bị bệnh.
•
Thay đổi kích thước và hình dạng của
vú.
•
Chảy dịch núm vú hoặc tụt núm vú.
•
Đỏ hoặc bong vảy da hoặc núm
vú.
•
Dăn rúm da vú.
Nếu phát hiện thấy các triệu
chứng trên cũng không có nghĩa là bị ung
thư, nhưng cần phải đi khám bác sĩ để xác định bệnh.
CHẨN
ĐOÁN
Khi
một bệnh nhân có các triệu chứng gợi ý một ung thư vú hoặc có một hình chụp vú
sàng lọc bất thường cần được tiến hành chụp vú để chẩn đoán.
Chụp
vú chẩn đoán là một hình thức chụp phim X quang vú hoàn thiện hơn có sự tập
trung vào các vùng nghi ngờ. Đôi khi nếu bác sĩ nghi ngờ bạn có thể có một u
nang hoặc một vú đặc hơn.
Siêu
âm sử dụng các sóng âm tần số cao để xác định rõ các vùng nghi ngờ của vú.
Siêu
âm không gây đau và có thể phân biệt giữa các tổn thương lành tính và ác tính.
Dựa
vào kết quả chụp vú hoặc siêu âm, bác sĩ có thể yêu cầu bạn được sinh thiết
thử.
Sinh
thiết là cách duy nhất để biết được một cách chắc chắn bạn có bị ung thư vú hay
không vì nó cho phép các bác sĩ lấy các tế bào để xét nghiệm dưới kính hiển vi.
Có
các loại sinh thiết khác nhau phụ thuộc vào lượng mô (tập hợp nhiều tế bào được
gọi là mô) được lấy ra.
Có
loại sinh thiết sử dụng một kim rất nhỏ (còn gọi là chọc hút kim nhỏ), trong
khi loại sinh thiết khác sử dụng một kim lớn hơn hoặc đôi khi đòi hỏi một phẫu
thuật nhỏ (tiểu phẫu thuật) để lấy được nhiều mô hơn.
Các
bác sĩ sẽ quyết định loại sinh thiết nào cần thực hiện với bạn phụ thuộc vào
các đặc điểm khối u của vú.
Khi
u được lấy ra, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ nghiên cứu mẫu mô.
Bác sĩ giải
phẫu bệnh sẽ cho biết mẫu bệnh phẩm có phải ung thư hay không.
Nếu
mẫu mô là ung thư, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ xác định:
•
Mô ung thư phát sinh từ loại mô nào
(loại mô học của u)
•
Mô u bất thường đến mức độ nào (còn
gọi là độ u ác tính thấp hay cao, thường được đánh giá thành ba độ: độ I, độ II
và độ III theo các tác giả Scaff - Bloom - Richardson)
•
Mô ung thư có xâm nhập vào các mô
xung quanh hay không
•
Toàn bộ khối u có được cắt bỏ không
•
Có còn tế bào ung thư ở vùng mép cắt
hay không
•
Các
nhà giải phẫu bệnh cũng sẽ xét nghiệm xem các tế bào ung thư có chứa các thụ
thể (nghĩa là thể tiếp nhận) estrogen và progesteron hay không và một thụ thể
khác gọi là Her-2/neu. Sự có mặt của các thụ thể estrogen và progesteron là
quan trọng vì các tế bào ung thư có các thụ thể này có thể được điều trị khỏi
bằng liệu pháp nội tiết tố. Sự có mặt của thụ thể Her-2/neu có thể giúp dự báo
diễn biến bệnh. Cũng có một số biện pháp điều trị đặc hiệu chống khối u phụ
thuộc và sự có mặt của Her-2/neu trong các tế bào u.
Chụp X
quang vú
Chụp
X quang vú có thể được áp dụng trong chẩn đoán ung thư vú. Chụp vú cho thấy cấu
trúc vú giống như một hình chụp âm bản. Mỡ ít đậm đặc hơn biểu hiện là các
vùng "đen" trên hình chụp vú. Các ống tuyến vú và các tiểu thuỳ đặc
hơn là các vùng trắng trên hình chụp vú. Vì vậy hình chụp vú sẽ là các hình đen
và trắng khác nhau trên hình chụp vú phụ thuộc vào mô mỡ nhiều hay mô vú nhiều.
Nếu hình chụp vú trắng nhiều nghĩa là mô vú nhiều hơn mô mỡ.
Hầu hết các ung thư vú đặc hơn mô vú
bình thường và sẽ có các hình khối "trắng" trên hình chụp vú. Ung thư
có thể có "hình sao trắng" trên hình chụp vú hoặc hình khối không
đều.

Vôi hoá vi
thể là gì?
Vú
thường xuyên chế tiết và tái hấp thu dịch. Nếu dịch này trở nên acid hơn, calci
có thể lắng đọng trong các ống tuyến và các tiểu thuỳ vú. Các lắng đọng vôi này
có thể thấy dưới dạng một vùng tròn nhỏ nhẵn hoặc hình chén nước chè. Hầu hết
các vôi hoá vi thể là lành tính.
Vôi
hoá vi thể ở vú gây lo lắng do ung thư. Vì các tế bào ung thư là các tế bào
phát triển nhanh hơn, chúng có thể phát triển quá khả năng cung cấp máu và
chết, tạo thành các lắng đọng vôi chỉ nhìn thấy dưới kính hiển vi (vôi hoá vi
thể). Vôi hoá có thể xảy ra trong các ống hoặc các tiểu thuỳ trông giống như
"cái kim gãy" hoặc "hòn đá bị đập vụn". Chính loại vôi hoá
này đòi hỏi phải sinh thiết vú.
Chụp ống
sữa
Chụp ống dẫn sữa là kiểu chụp vú đặc
biệt để đánh giá chảy dịch núm vú. Khi chụp vú, một chất phẩm không nhuộm màu
hoà tan trong nước được bơm vào ống núm vú có chảy dịch để xác định nguồn gốc
chảy dịch (phần vú là nguồn chảy dịch). Chụp ống dẫn nhằm xác định nguyên nhân
chảy dịch và phần nào của vú bị chảy dịch.
Chụp nhiệt
Chụp
nhiệt là một xét nghiệm dùng để đo nhiệt độ ở mỗi vú. Nếu một vùng của vú nóng
hơn phần còn lại của vú, nó có thể là một chỉ điểm của ung thư sớm. Đó là do mô
ung thư phát triển đòi hỏi có nhiều mạch máu nuôi mô u hơn bình thường. Đồng
thời theo thời gian, bất kỳ một thay đổi nào về nhiệt của vú có thể được so
sánh. Chụp nhiệt chỉ có thể sử dụng kết hợp với hình chụp vú và không có giá
trị sử dụng riêng để tìm ung thư vú.
Siêu âm
Một
khi u vú được phát hiện, bác sĩ có thể chỉ định xét nghiệm siêu âm vú. Siêu âm được thực hiện bởi các sóng âm
"dịch chuyển" của mô vú để tìm xem một u vú là nang hay là một khối
đặc.
Hút kim
nhỏ
Hút
kim nhỏ hay còn gọi là tế bào học chọc hút kim nhỏ là phương pháp nhanh nhất để
xác định một u vú là đặc hay nang. Tại một cơ sở y tế, hút kim nhỏ có thể được
thực hiện có gây tê tại chỗ hoặc không, một kim nhỏ được đưa vào khối u. Nếu có
dịch được hút ra từ khối u, đó là một tổn thương nang. Nếu dịch hút ra không
phải là dịch máu và khối u biến mất hoàn toàn, bạn chỉ cần đến khám lại nếu
khối u lại xuất hiện.
Nếu
không có dịch khi kim được đưa vào hút, khối u là đặc. Bác sĩ sẽ thực hiện hút
tế bào để xét nghiệm tế bào học. Với những thông tin thu nhận được từ những xét
nghiệm này, bác sĩ sẽ có kế hoạch điều trị khối u.
Hút
kim nhỏ hiện nay được sử dụng phổ biến vì ít khi gây đau (chỉ đau như khi
tiêm), ít gây máu tụ và cho chẩn đoán nhanh hơn. Phương pháp đảm bảo độ nhạy,
độ đặc hiệu và độ chính xác chấp nhận được, nhưng phương pháp không đảm bảo
chắc chắn là không có ung thư. Một kết quả âm tính nghĩa là kim đã bỏ sót vùng
ác tính. Trong trường hợp này cần sinh thiết để khẳng định kết quả tế bào học
là âm tính thực sự.
Hút kim nhỏ được thực hiện bằng việc
sử dụng một kim tiêm số 22 (22- gauge) được gắn vào một bơm tiêm 20 ml. Sau khi
kim tiêm được đưa qua da để đi vào khối u, bơm tiêm sẽ được hút để tạo nên một
áp lực âm hút tế bao u. Kim sẽ được đưa qua khối u từ 4 đến 6 lần theo các
hướng khác nhau. Chất hút được trong kim tiêm sẽ được dàn lên phiến kính, nhuộm
màu và đọc kết quả dưới kính hiển vi.

Sinh thiết
kim có hướng dẫn
Đây
là một kỹ thuật tương đối mới nhờ đó sẽ lấy được một lõi mô (bằng kích thước
của một cái ruột bút chì). Phương pháp này được thực hiện nhờ việc kết hợp sử
dụng kỹ thuật vi tính kết hợp với phim chụp vú để hướng dẫn và đặt kim vào vị
trí u để hút mô ra.
Sinh thiết
vú là gì?
Sinh
thiết vú là lấy ra một phần mô vú. Các chỉ định sinh thiết vú là:
1. U vú tồn tại kéo dài (không mất
đi).
2. Lõm hoặc nhăn nhúm da vú hoặc núm
vú.
3. Nổi ban (nổi mụn nhỏ) bất thường
của da vú.
4. Chảy dịch núm vú.
5. Có hình ảnh bất thường trên hình
chụp vú: (a) có khối u; (b) không có khối u.
6. Một khối u vú nghi ngờ là ung
thư.
Sinh thiết
được thực hiện ở đâu?
Sinh
thiết thường được thực hiện với các bệnh nhân ngoại trú (sau khi sinh thiết bạn
có thể về nhà). Tuy nhiên đôi khi bác sĩ hoặc bệnh nhân yêu cầu sinh thiết ở
bệnh viện.
Loại gây
mê nào được áp dụng?
Có thể thực hiện sinh thiết vú bằng gây
mê toàn thân (ngủ) hoặc gây tê tại chỗ.
Sinh thiết bằng móc thép, hướng dẫn bằng kim, hoặc dây thép hình chữ J
Khi
không sờ nắn thấy khối u nhưng có hình ảnh bất thường trên hình chụp vú, một
loại sinh thiết đặc biệt được áp dụng. Định vị bằng dây thép hình chữ J, móc
thép hoặc định vị bằng kim là phương pháp được sử dụng để định vị một biến đổi
bất thường của mô vú (thường là vôi hoá vi thể nghĩa là những điểm vôi hoá nhỏ,
khi cắt mô vú ra không nhìn thấy được bằng mắt thường và chỉ có thể xem thấy
dưới kính hiển vi) hoặc là một khối không thể sờ thấy.
Bệnh
nhân thường được tạo điều kiện thoải mái, thường ở tư thế ngồi. Vú của bệnh
nhân được đặt trên một máy chụp vú. Sử dụng hình chụp vú để hướng dẫn, bác sĩ X
quang đưa một kim nhỏ có chứa một dây thép nhỏ có móc. Kim này được đưa vào
vùng cần xác định vị trí (có bất thường) ở vú. Nhiều hình chụp vú được thực
hiện để kiểm tra sự chính xác của việc xác định vị trí này. Một khi vị trí cần
sinh thiết được xác chính xác, kim được rút ra để lại móc thép tại chỗ. Sau đó
bệnh nhân được phẫu thuật để lấy vùng có vôi hoá vi thể theo hướng dẫn của dây
thép đã "móc" vào vùng nghi bị ung thư. Kỹ thuật này được thực hiện
phổ biến ở các nước phát triển ở châu Âu và Mỹ, ở Việt nam mới chỉ được áp dụng
ở một số lượng nhỏ các trường hợp.
Phương
pháp này thực tế ít gây đau. Tuy nhiên bạn có thể hơi mệt hơn so với chụp vú
thông thường vì bác sĩ cần nhiều thời gian hơn để đặt móc thép vào đúng vị trí.
Khi nào
bệnh nhân có thể về nhà?
Thường
từ một giờ đến hai giờ sau khi sinh thiết bạn có thể về nhà. Tuy nhiên bạn cần
có người đèo về, bạn không thể tự đi xe máy hay xe đạp về nhà.
Phải làm
gì sau khi sinh thiết?
Sau
khi sinh thiết bạn có thể bị khó chịu. Cảm giác đó có thể mất đi nhanh chóng.
Tuy nhiên một vài phẫu thuật viên có thể yêu cầu bệnh nhân mặc áo con nịt vú
tốt trong vòng vài tuần sau đó kể cả ban đêm. Làm như vậy có thể đề phòng chảy
máu có thể xảy ra và sẽ giúp làm giảm đau nếu có.
Sinh thiết
vú có đau không?
Bạn
có thể bị đau rất nhẹ sau khi sinh thiết. Bạn có thể được cho thuốc giảm đau để
làm giảm bớt khó chịu. Nếu thuốc không làm hết đau bạn cần thông báo lại với
thầy thuốc.
Liệu có
biến cố gì khác sau khi sinh thiết vú
Như
mọi thủ thuật khác, sinh thiết vú bằng kim có thể gây chảy máu làm thay đổi màu
vú sau khi làm thủ thuật. Cũng như với mọi thủ thuật khác, cũng có thể có nguy
cơ nhiễm khuẩn và biến cố do gây mê. Mặc dù những biến cố này thường nhẹ, bác
sĩ sẽ giải thích cho bạn trước khi làm thủ thuật.
Bác sĩ sẽ
làm gì sau khi mô vú được lấy ra
Khi
mô vú đã được lấy ra, bác sĩ lâm sàng sẽ gửi mẫu mô này cho bác sĩ giải phẫu
bệnh để xét nghiệm dưới kính hiển vi. Sau khi quan sát dưới kính hiển vi, bác
sĩ sẽ xác định dó là mô vú lành tính hay ác tính. Mô vú được lấy ra có thể được
làm đóng băng thành một khối đá, sử dụng phương pháp cắt lạnh để quan sát mô vú
ngay lập tức hoặc vùi vào trong một khối nến để chuẩn bị cho các lát cắt có thể
bảo quản lâu dài (phương pháp này đòi hỏi thời gian từ 12 đến 24 giờ chuẩn bị
cho xét nghiệm). Phương pháp chuẩn bị thường quy cho các lát cắt mỏng lâu dài
là phương pháp chính xác nhất.
Khi mô vú
lấy ra là lành tính thì phải làm gì?
Nếu
mô vú lấy ra là lành tính, bạn không phải làm gì thêm trừ việc theo dõi thường
xuyên của bác sĩ.
Bạn phải
làm gì để tự phát hiện bệnh?
1. Tự khám vú hàng tháng
2. Chú ý thường xuyên tới những thay
đổi của vú bạn.
3. Đi khám bác sĩ ngay khi phát hiện
được những biến đổi rõ rệt.
CHẨN
ĐOÁN PHÂN BIỆT
U
xơ tuyến
Đây
là một thể lành tính của bệnh vú, thường là một u đặc đơn độc (chỉ có một u)
của mô xơ và tuyến. Loại u này rất phổ biến ở phụ nữ mọi lứa tuổi, nhưng u phổ
biến hơn ở lứa tuổi 15 - 35 tuổi. Mặc dù đây là một u lành, có thể điều trị
bằng phẫu thuật. Nếu u được phát hiện ở một phụ nữ trẻ, vì lý do tâm lý, họ
thường muốn được theo dõi. Ở những phụ nữ già hơn với lần chụp vú đầu tiên phát
hiện được một khối u trên hình chụp vú, ngay cả khi là một hình ảnh lành tính
trên hình chụp vú cũng đòi hỏi cắt bỏ bằng phẫu thuật.
U tròn và di dộng dễ dàng
Khoảng 10% sẽ biến mất mỗi năm khi
theo dõi ở những phụ nữ có u xơ tuyến được xác định bằng chọc hút tế bào kim
nhỏ.
Là
một yếu tố nguy cơ dài hạn phát sinh ung thư vú (gấp 2,17 lần so với những
người không có yếu tố nguy cơ).

Bệnh
xơ nang của vú
Mỗi
tháng cơ thể người phụ nữ đều chuẩn bị cho việc có mang, có những thay đổi xảy
ra ở vú và tử cung. Mô vú không thể để rụng các tế bào bào biểu mô phủ tuyến vú
như ở tử cung và cũng không thể trở lại trạng thái bình thường trước đó. Hậu
quả là có thể tạo nên các túi dịch nhỏ (các nang) hoặc một mô cứng như cao xu
(mô xơ). Những thay đổi này xảy ra ở trong vú không phải là một bệnh
thực sự. Nó có thể
được gọi là tình trạng bệnh xơ nang hoặc thay đổi xơ nang của vú.

Bệnh
xơ nang là một thuật ngữ mơ hồ bao gồm nhiều typ bệnh vú lành tính. Những
nghiên cứu lớn đã cho thấy quá một nửa số phụ nữ có những thay đổi vi thể
(những thay đổi chỉ nhìn thấy dưới kính hiển vi) phù hợp với bệnh xơ nang của
vú. Bệnh xơ nang không phải là một bệnh ác tính. Bệnh xơ nang có các typ sau
đây:
Nang
to trong bệnh xơ nang
•
Tìm thấy ở những phụ nữ ở các tuổi
40, vì vậy trùng với tuổi hay mắc ung thư vú.
•
Có thể chẩn đoán bằng chọc hút kim
nhỏ và siêu âm.
•
Các điều kiện quyết định cho một hút
nang có hiệu quả:
•
Không có dịch máu được hút ra.
•
Khối u biến mất
•
Khám lại sau 6 tháng không còn khối
u
Bệnh
xơ tuyến và các vi nang trong bệnh xơ nang tuyến vú
•
Tìm thấy ở các lứa tuổi 30 và 40
•
Biến mất sau mãn kinh
•
Thường lan toả (lan rộng) và giới
hạn không rõ
•
Thường có chu kỳ theo kinh nguyệt
Đau và nổi rõ trước khi hành kinh
Mất đi sau hết kinh
Điều
trị bệnh xơ nang như thế nào?
Đau
và nổi cục do thay đổi xơ nang của vú có thể gây lo lắng và sự quan tâm của
người phụ nữ. Nếu sau khi có xét nghiệm, bạn được thông báo là bạn có những
thay đổi xơ nang, việc điều trị có thể được thực hiện. Việc loại trừ cafein
trong chế độ uống của bạn có thể giúp làm giảm đau và nổi cục. Việc bổ sung
thêm viatmin E, 600 đến 800 đơn vị mỗi ngày giúp phụ nữ khỏi các trạng thái
này. Các loại thuốc khác cũng có thể được sử dụng dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.
Quá
sản không điển hình của vú
Tăng
sinh rõ rệt và không điển hình của tế bào biểu mô, hoặc loại ống hoặc tiểu
thuỳ.
Gặp
trong 3% các sinh thiết vú lành tính
Kết
hợp với 13% phát triển tiếp ung thư vú (yếu tố nguy cơ gấp 4 lần)
Tiêu
chuẩn chẩn đoán giống như ung thư biểu mô ống tại chỗ nhưng không có các đặc
điểm cần thiết để chẩn đoán ung thư ống tại chỗ.
Một số trường hợp có thể là ung thư
biểu mô ống tại chỗ được chẩn đoán non.
Thay
đổi của mô xơ
Trong
chu kỳ hành kinh, mô vú có thể trở nên cứng và đàn hồi do thay đổi của mô xơ.
Cảm giác mô vú cứng này có thể thay đổi trong chu kỳ kinh và có thể sờ nắn thấy
rất khác nhau và gây đau trước khi hành kinh.
Những
trạng thái lành tính khác của vú
Có
phải chảy dịch núm vú là một bệnh?
Chảy
dịch núm vú có thể được chia làm hai loại: bình thường (sinh lý) hoặc bất
thường (bệnh lý). Thường có chảy dịch từ tất cả các phần của núm vú nếu nó bị
ép (nặn). Nếu chảy dịch xảy ra không do ép, cần phải khám xét. Nếu chảy dịch chỉ từ một phần của núm vú
cũng cần phải khám xét.
Có
sự khác nhau về màu dịch và nguyên nhân khác nhau:
•
Chảy
sữa:
Chảy
dịch trắng gọi là chảy sữa thường không phải là chỉ điểm của ung thư. Nó có thể
xảy ra sau có mang hoặc do sử dụng nhiều loại thuốc được kê đơn hiện nay. Những
phụ nữ luyện tập không có nịt vú (áo con) tốt có thể có chảy dịch núm vú. Vì
nhiều vấn đề nghiêm trọng khác cũng có thể gây nên chảy dịch, nó cần được khám
xét.
•
Tình trạng xơ nang
:
Chảy dịch màu
xanh nhạt có thể kết hợp với bệnh xơ nang.
•
U
nhú:
U
nhú nội ống (trong ống) có thể gây nên chảy dịch trong, vàng hoặc máu. Đó là sự
phát triển giống các nhú của mụn cơm được phát hiện trong các ống dẫn sữa của
vú. Sau khi xác định, u nhú cần được cắt bỏ.
•
Chảy
dich máu núm vú:
Một
u nhú nội ống hoặc ung thư có thể gây chảy dịch máu núm vú. Một nghiên cứu được
gọi là chụp ống dẫn sữa là cần thiết để định vị trí nguồn gốc của chảy dịch.
Giãn
ống tuyến vú (viêm vú quanh ống)
•
Thể cấp tính là nguyên nhân của hầu
hết các viêm vú không tiết sữa và hình thành áp xe quanh quầng vú. Nó có thể là
vô trùng nhưng có thể có cả vi trùng ái khí và yếm khí. Chỉ có một hệ thống ống
của vú bị tổn thương và biểu hiện như một viêm quanh quầng vú. Bệnh thường biểu
hiện như một lỗ dò ở vùng quanh quầng vú. Thêm vào đó có thể có tổn thương tiếp
tạo thành các đường ăn sâu hơn.
•
Giãn ống tuyến mạn tính là nguyên
nhân của chảy dịch núm vú ở những phụ nữ mãn kinh.
Nhiễm
khuẩn
Nhiễm
khuẩn vú có thể xảy ra ở bất cứ thời điểm nào mặc dù nó phổ biến hơn trong và
sau khi có mang. Điều trị có thể phải mở và dẫn lưu một ổ áp xe nếu nó được
hình thành. Nếu một nhiễm khuẩn phát sinh vào thời điểm không có mang, cần nghi
ngờ một ung thư vú.
Chấn
thương
Chấn
thương hoặc tổn thương vú có thể gây nên "hoại tử mỡ" hoặc trong một
vùng mô mỡ của vú có thể bị tổn thương. Nó có thể gây đau và/hoặc một cục u ở
vú. Có thể cần mổ loại bỏ cục u.
Đau
vùng vú
Tình
trạng xơ nang có thể gây nên đau vú. Đau thành ngực hoặc trong
xương và sụn hoặc trong cơ là triệu
chứng phổ biến thường được nghĩ là đau vú.
GIAI
ĐOẠN BỆNH
Để
giúp cho việc điều trị và dự báo diễn biến của bệnh (còn gọi là tiên lượng
bệnh), các ung thư vú được định giai đoạn bệnh thành 5 nhóm khác nhau.
Việc
định giai đoạn này được thực hiện trước phẫu thuật bằng việc:
•
Đánh giá kích thước theo ước đoán
của bác sĩ
•
Đo kích thước u trên hình chụp vú
•
Tìm sự lan tràn của u tới các cơ
quan khác bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
•
Xác định chắc chắn sau khi mổ lấy
hạch bạch huyết ra để các nhà giải phẫu bệnh xác định xem các hạch có bị di căn
(có tế bào ung thư) không.
Hệ thống định giai đoạn cũng phức tạp nhưng có thể đơn hoá giản như sau:
Giai
đoạn 0
(được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ)
•
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ là
tên để chỉ các tế bào bất thường (ung thư) lót lòng các tiểu thuỳ của vú. Các
tế bào bất thường này là dấu ấn tăng nguy cơ nguy cơ phát sinh ung thư vú,
nhưng bản thân nó chưa phải là một ung thư thực sự. Điều đó có nghĩa là các phụ
nữ với ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ có tăng nguy cơ phát sinh ung thư xâm
nhập ở vú vào một thời điểm nào đó trong tương lai.
•
Ung thư biểu mô ống tại chỗ là tên
để chỉ các tế bào bất thường phủ các ống tuyến.Typ này còn được gọi là ung thư
biểu mô nội ống. Các tế bào bất thường chưa lan tràn ra ngoài ống để xâm nhập
vào mô vú xung quanh. Nếu không điều trị, các bệnh nhân mắc ung thư biểu mô ống
tại chỗ có nguy cơ tăng mắc ung thư biểu mô ống xâm nhập. Về điều trị giống như
với các bệnh nhân mắc ung thư vú giai đoạn I.
Giai
đoạn I:
Giai đoạn I là giai đoạn sớm của ung thư biểu mô ống xâm nhập. Trong ung thư vú
giai đoạn I, khối u có đường kính nhỏ hơn 2 cm và không lan tràn ra khỏi vú.
Giai
đoạn II:
Giai đoạn II bao gồm:
•
Ung thư vú giai đoạn sớm u có đường
kính nhỏ hơn 2 cm và có lan tràn tới hạch nách.
•
U giữa 2 và 5 cm, có hoặc không có
lan tràn tới hạch nách.
•
U lớn hơn 5 cm
nhưng không có lan tràn ra ngoài vú (không lan tràn tới hạch nách.
Giai
đoạn III:
Giai đoạn III bao gồm:
Giai
đoạn IIIA: U ở vú nhỏ hơn 5 cm, ung thư đã lan trnà tới hạch nách và các hạch
dính với nhau và dính với các cấu trúc khác hoặc có đường kính lớn hơn 5 cm và
đã lan tràn tới hạch nách.
Giai
đoạn IIIB: Ung thư phát triển vào thành ngực da vú hoặc ung thư lan tràn tới
các hạch dưới xương ức Ung thư biểu mô viêm của vú cũng thuộc giai đoạn IIIB.
Typ này hiếm gặp. Vú trông đỏ và sưng to vì các tế bào ung thư làm tắc các bạch
mạch.
Giai
đoạn IIIC: Ung thư đã lan tràn vào các hạch bạch huyết dưới xương ức và hạch
nách, hoặc tới các hạch bạch huyết dưới và trên xương đòn. U vú nguyên phát có
thể có bất kỳ kích thước nào.
Giai
đoạn IV:
Ung thư vú di căn trong đó ung thư lan tràn ra ngoài vú tới các cơ quan khác
trong cơ thể.
Ung
thư tái phát
là ung thư đã quay trở lại (tái phát) sau điều trị. Nó có thể tái phát tại chỗ
(ở vú hoặc thành ngực) hoặc ở một phần khác của cơ thể.
Phụ
thuộc vào giai đoạn ung thư, bác sĩ có thể làm thêm các xét nghiệm để tìm xem
đã có các ung thư di căn chưa. Nếu ung thư đã ở giai đoạn III, có thể phải chụp
X quang, chụp phim cắt lớp vi tính (CT) và chụp xương để tìm di căn. Tuỳ thuộc
vào từng bệnh nhân, bác sĩ sẽ quyết định phải làm gì để định chính xác giai
đoạn ung thư.
CHẨN
ĐOÁN MÔ BÊNH BỆNH
UNG THƯ
BIỂU MÔ ỐNG
Ung
thư biểu mô ống tại chỗ
- Các tế bào ung thư này phát triển từ mô ống và còn nằm trong các ống. Trước
đây người ta cho rằng đây là loại ung thư hiếm gặp, hiện nay người ta ước đoán
nó chiếm khoảng 15 đến 25% tất cả các ung thư
vú mới được chẩn đoán. Khi được chữa khỏi ở giai đoạn
này, cơ hội chữa khỏi rát cao.
Ung
thư vú xâm nhập
:
Loại ung thư này có khả năng di căn xa và chiếm khoảng 70 đến 80% tất cả các
ung thư vú mới được chản đoán.
UNG THƯ
BIỂU MÔ TIỂU THUỲ
Ung
thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ
- Nhiều chuyên gia cho rằng đây không phải là một ung thư
thực sự nhưng có thể là một dấu ấn cho sự phát triển của một ung thư vú trong
tương lai. Người ta ước đoán là chỉ khoảng 30% đến 50% các bệnh nhân có loại
ung thư này phát triển thành ung thư vú thực sự trong 10 năm sau. Việc điều trị
còn chưa được thống nhất.
Ung
thư biểu mô tiểu thuỳ xâm nhập
- Loại ung thư này có thể di căn và lan tràn đâu đó trong
cơ thể. Việc điều trị giống như ung thư biểu mô ống xâm nhập.
Chẩn
đoán và điều trị ung thư vú là gì
?
Với
sự hiểu biết về sự phát triển tế bào trong ung thư vú, chúng ta có thể bắt đầu
hiểu vì sao vấn đề chẩn đoán và điều trị ung thư thư vú trở thành vấn đề phức
tạp và dễ nhầm lẫn với cả thầy thuốc và bệnh nhân. Khi hiểu rằng ung thư vú có
thể đã phát triển một thời gian dài trước khi có thể chẩn đoán được bệnh, chúng
ta càng hiểu được tầm quan trọng của tự khám vú và chụp X quang vú. Khi ung thư
được tìm thấy ở giai đoạn "tại chỗ" hoặc nếu ung thư rất nhỏ, cơ hội
để người phụ nữ có một đời sống bình thường cao hơn nhiều.
Việc
hiểu biết này cũng giúp cắt nghĩa vì sao các thuốc (điều trị bằng hoá chất hoặc
điều trị bằng hormon) được sử dụng. Nếu ung thư lớn hoặc là xâm nhập khi được
phát hiện, nguy cơ di căn tăng. Các tế bào ung thư đáp ứng tốt với các thuốc bổ
trợ, bệnh di căn có thể bị phá huỷ. Vì vậy các thuốc này được sử dụng với mục
đích để người bệnh có được đời sống bình thường.
Làm gì khi
mô vú được mổ lấy ra là ung thư?
Nếu mô vú là
ung thư (ác tính), bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ nghiên cứu tiếp để giúp lập kế
hoạch điều trị.
Vì sao
phải nghiên cứu mô ung thư và nghiên cứu gì?
Bác sĩ giải phẫu
bệnh sẽ nghiên cứu mô ung thư vú được lấy ra để xác định nhiều vấn đề để giúp
bác sĩ lâm sàng lập kế hoạch điều trị. Mô ung thư được nghiên cứu để xem các
bạch mạch, các mạch máu và/hoặc các cấu trúc khác có bị xâm nhập ung thư hay
không. Nếu có các tổn thương trên, bạn sẽ được khuyên dùng thuốc điều trị bổ
trợ.
Vì sao
bệnh nhân ung thư vú cần được nhiều người giúp đỡ
Điều trị
ung thư vú cần cả một nhóm bác sĩ
Để giúp người phụ nữ quyết định và
hiểu được việc điều trị ung thư vú của mình, cần gặp gỡ các chuyên gia khác
nhau:
•
Bác sĩ ung thư học nội khoa
: Bác sĩ ung thư học nội khoa sẽ
giúp đánh giá các yếu tố tiên lượng và quyết định có cần điều trị bổ trợ không.
Bác
sĩ ung thư học
nội khoa cũng sẽ quyết định các thuốc sẽ sử dụng để điều trị.
•
Bác sĩ xạ trị
: Bác sĩ xạ trị sẽ giúp đánh giá khả
năng điều trị bảo tồn vú. Nếu điều trị bảo tồn vú được quyết định, bác sĩ sẽ
tiến hành xạ trị.
Bác sĩ tâm thần học hoặc tâm lý học
: Khi một chẩn đoán
ung thư vú được xác định, nó sẽ trở thành một thời kỳ đầy sang chấn tinh thần
cho người phụ nữ và gia đình. Một số bệnh nhân có thể cảm thấy đau đớn và không
thể đưa ra các quyết định hoặc có thể trở thành chán nản. Bằng sự trở giúp tạm
thời này, cuộc sống của bệnh nhân và gia đình họ có thể được ổn định.
ĐIỀU
TRỊ UNG THƯ VÚ
¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Trong nhiều năm, phương pháp điều
trị ung thư vú duy nhất là cắt bỏ vú triệt căn theo Halsted. Khi sự hiểu biết
về ung thư vú được mở rộng, các quan niệm về quản lý và điều trị ung thư vú đã
thay đổi. Không phải tất cả các bệnh nhân đều có thể được áp dụng một hình thái
phẫu thuật. Tuy nhiên theo loại và
kích thước ung thư, một số bệnh nhân có thể cùng được áp
dụng một cách điều trị.
Việc điều
trị ung thư vú cần đạt được mục tiêu gì?
Mục đích của bất kỳ điều trị ung thư
vú nào là kiểm soát được ung thư vú và trả lại cuộc sống bình thường, có đầy đủ
chức năng cho bệnh nhân.
Kiểm soát
ung thư vú như thế nào?
Kiểm soát ung thư vú có thể được
chia làm hai phần điều trị riêng biệt:
Kiểm
soát tại chỗ -vùng
:
Khi một sinh thiết đã được thực hiện, mô vú lấy ra được nghiên cứu ở thời điểm
phẫu thuật bởi phẫu thuật viên và nhà giải phẫu bệnh. Mục đích của sinh thiết
vú là phải giúp lấy được khối ung thư với vùng mép cắt mô vú bình thường xung
quanh khối u. Nếu mục đích này dạt được, "vùng mép cắt không bệnh"
thu được và bệnh nhân được điều trị bảo tồn và có thể lựa chọn xem ung thư vú
của mình được điều trị như thế nào.
Kiểm
soát xa
:
Nếu một ung thư có tiềm năng di căn xa, mục đích của điều trị là kiểm soát các
tế bào này ngoài cơ thể và hạch bạch huyết. Có thể đạt được mục đích này bằng
đièu trị bổ trợ.
Làm thế nào để có thể kiểm soát được
tại chỗ?
Kiểm soát bệnh ban đầu tại chỗ-vùng
thường đạt được bằng phẫu thuật.
Lựa chọn
phẫu thuật để điều trị ung thư vú như thế nào?
Điều
trị bảo tồn
:
Vú được điều trị bảo tồn bằng cách cắt rộng vùng ung thư, lấy các hạch nách và
điều trị bằng tia xạ.
Cắt
bỏ vú
:
Cắt bỏ vú là mổ lấy toàn bộ khối vú. Cắt bỏ vú đơn thuần là chỉ mổ
lấy vú. Cắt bỏ vú triệt căn cải biên là
mổ cắt bỏ vú và các hạch bạch huyết của nách.
Điều
trị ung thư vú
Điều
trị ung thư vú không phải là công việc của một bác sĩ mà là công việc của một
nhóm các chuyên gia. Khi bạn phát hiện thấy có vấn đề ở vú, bạn cần phải theo
các bước sau:
Hút kim
nhỏ
Hút
kim nhỏ để phát hiện những biến đổi của mô vú là gì. Nếu ung thư
được phát hiện, sinh thiết vú được thực
hiện và có thể bảo tồn vú nếu có thể
được.
Phương
pháp một giai đoạn
Nếu
ung thư được tìm thấy trong khi sinh thiết, bệnh nhân và bác sĩ có thể thoả
thuận để tiến hành phẫu thuật để điều trị ung thư vú ngay, đây là
phương pháp một giai đoạn. Thủ thuật
này thường được tiến hành ở bệnh viện.
Phương
pháp hai giai đoạn
Phương
pháp này có nghĩa là nếu phát hiện có ung thư trong khi sinh thiết, bệnh nhân
và bác sĩ chỉ thoả thuận để xác định chẩn đoán và không tiến hành phẫu thuật
tại thời điểm này. Sau khi chẩn đoán được xác định, bệnh nhân có thời gian để
thảo luận với bác sĩ về biện pháp điều trị.
Nên lựa
chọn phương pháp nào
Việc
lựa chọn giữa phương pháp một giai đoạn và hai giai đoạn là do sự thoả thuận
giữa bác sĩ và bệnh nhân. Một số bệnh nhân muốn thực hiện hoàn chỉnh việc sinh
thiết và điều trị trong một thì và chọn phương pháp một giai đoạn. Tuy nhiên
cách tốt nhất là các u vú có nghi ngờ ác tính được mổ tại một bệnh viện chuyên
ung thư có chẩn đoán sinh thiết tức thì ngay trong khi phãu thuật, nếu chẩn
đoán ung thư được xác nhận, bệnh nhân sẽ được điều trị phẫu thuật ung thư vú
ngay.
Một
số phụ nữ muốn có thời gian để xác định chẩn đoán ung thư và để được thông báo
về các biện pháp điều trị, họ chọn phương pháp hai giai đoạn. Người bệnh nhân
cũng cần biết là không nên vội vàng với phẫu thuật ung thư vú. Bạn có thời gian
để quyết định. Khi một chẩn đoán ung thư vú được xác định, bệnh đã có thể có
hàng năm trước khi được chẩn đoán (giai đoạn tiền lâm sàng).
Khi
bệnh nhân đã được thông báo về tình trạng bệnh, chỉ họ có thể quyết định việc
điều trị cho mình. Chỉ sau khi đánh giá tất cả các yếu tố tiên lượng, bác sĩ
phẫu thuật sẽ hướng dẫn bệnh nhân lựa chọn các điều trị. Một thời gian ngắn
giữa sinh thiết và phẫu thuật sẽ không ảnh hưởng tới sự lan tràn của bệnh hoặc
cơ hội chữa khổi bệnh. Tuy nhiên thời gian giữa sinh thiết và điều trị không
nên dài quá từ 14 đến 21 ngày.
Có thể cứu
vãn được vú?
Mặc
dù bị ung thư vú, nhiều trường hợp có thể cứu vãn được vú bằng điều trị bảo
tồn.
Cắt bỏ u
vú hoặc cắt bỏ một phần vú
Trong
phương pháp này, một sinh thiết được thực hiện bằng cách lấy khối u và thu đươc
vùng mép cắt không có ung thư ("vùng mép cắt tự do"). Nếu có thể được
việc này nên làm ngay từ khi sinh thiết lần đầu.
Vùng mép
cắt tự do là gì?
Vùng
mép cắt tự do (ổ mô vú xung quanh khối u không bị xâm nhập ung thư) là quan
trọng trong điều trị bảo tồn vú. Nếu vùng mép cắt mô vú được lấy ra có ung thư,
có nguy cơ tái phát của ung thư.
Nếu
vùng mép cắt có ung thư và bệnh đã được điều trị bảo tồn, cần phải cắt bỏ lại
hoàn toàn. Cần nhớ là nếu vùng mép cắt tự do không đạt được, cần phải cắt bỏ
vú, không thể điều trị bảo tồn. Vùng mép cắt tự do là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để điều trị bảo tồn. Nếu vùng mép cắt bị xâm nhập ung thư, nguy cơ tái
phát rất cao. Trong điều trị bảo tồn, đôi khi phải phẫu thuật hai lần, sau đó
là xạ trị để điều trị phần vú còn lại. Cần nhớ rằng điều trị bảo tồn phải để
lại một vú với hình ảnh đẹp (thẩm mỹ). Nếu không đạt yêu cầu này thì không nên
điều trị bảo tồn.
Sau
khi mô vú được lấy ra nghiên cứu, sự lựa chọn có thể là phẫu tích hạch nách
hoặc cắt bỏ vú.
Phẫu
tích hạch nách (nạo vét hạch nách)
Các hạch nách được lấy ra nghiên cứu
xem có bị di căn ung thư hay không.
Vì sao
phải phẫu tích hạch nách?
Nếu
ung thư được phát hiện ở hạch nách, nguy cơ bệnh nhân có ung thư ở đau đó trong
cơ thể tăng lên. Nếu hạch nách bị di căn, bác sĩ có thể khuyên sử dụng hormon
hoặc hoá trị (điều trị bổ trợ).
Xạ trị
thường cần thiết để cứu vú
Ung
thư vú có thể xảy ra ở các phần khác trong mô vú còn lại. Tỷ lệ sống thêm với
phẫu thuật bảo tồn vú hình như cũng ngang bằng với tỷ lệ sống thêm khi vú được
cắt bỏ.
Bất lợi
của điều trị bảo tồn vú là gì?
•
Nếu quá nhiều mô vú được cắt bỏ, vú sẽ
không còn hình ảnh thẩm mỹ cần thiết
.
•
Bản chất nhiều trung tâm của ung thư
vú cần được chú ý, đó là lý do vì sao phải xạ trị vú.
•
Xạ trị có thể gây nên những thay đổi
trong vú cũng như ở da xung quanh và các cấu trúc khác, điều đó có thể trở
thành vấn đề có ý nghĩa. Điều này có thể không xảy ra trong nhiều trường hợp
nhưng bệnh nhân cần nhận thức rõ.
•
Xơ hoá mô vú gây nên do xạ trị có
thể làm cho việc khám vú trong quá trình theo dõi ung thư trở nên rất khó khăn.
Xạ trị kéo dài đến 6 - 8 tuần nên nhiều bệnh nhân không muốn theo quá trình
điều trị này.
PHẪU THUẬT
CẮT BỎ VÚ
Các
nguyên lý chung về điều trị phẫu thuật:
Hầu
hết các bệnh nhân ung thư vú đều trải qua một cuộc phẫu thuật trong quá trình
điều trị bệnh.
Mục
đích của phẫu thuật là loại bỏ nhiều nhất mô ung thư có thể loại bỏ và có các
hình thức phẫu thuật khác nhau.
Một
số phụ nữ được phẫu thuật bảo tồn vú (giữ lại vú). Trong phẫu thuật bảo tồn vú,
phẫu thuật viên chỉ lấy nhân u tại vú và một ít mô vú xung quanh khối u mà
không cắt bỏ toàn bộ vú.
Phẫu thuật bảo tồn vú thường phải
kết hợp với xạ trị (điều trị bằng tia).
Trong
phẫu thuật, bác sĩ có thể phẫu tích hạch (mổ lấy hạch) để bác sĩ giải phẫu bệnh
tìm ung thư di căn.
Một
số bệnh nhân được sinh thiết hạch cửa (gọi là hạch cửa vì mạch bạch huyết trước
khi đi vào các hạch nách phải đi qua nhóm hạch này, thường có một đến 3 hạch
cửa) để quyết định có phải phẫu tích toàn bộ hạch nách hay không.
Đôi
khi bác sĩ phải loại bỏ một phần lớn hơn của vú (nhưng không phải toàn bộ vú)
và được gọi là cắt bỏ vú một phần. Sau phẫu thuật này cũng cần kết hợp với xạ
trị.
Theo
một số nhà ung thư học, trong ung thư giai đoạn sớm (như giai đoạn I và II),
phẫu thuật bảo tồn vú cũng có hiệu quả như phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú.
Hầu
hết các bệnh nhân mắc ung thư biểu mô ống tại chỗ được phẫu thuật cắt bỏ vú
được điều trị xạ trị để dự phòng tái phát tại chỗ của ung thư biểu mô ống tại
chỗ, mặc dù một số các bệnh nhân ung thư biểu mô ống tại chỗ này chỉ cần theo
dõi chặt chẽ sau phẫu thuật. Lợi ích của phẫu thuật bảo tồn vú là bệnh nhân
không cần phải được phẫu thuật tạo hình lại vú.
Ung
thư vú giai đoạn muộn hơn thường được điều trị bằng cắt bỏ vú triệt căn cải
biên. Cắt bỏ vú triệt căn cải biên có nghĩa là lấy bỏ toàn bộ vú và phẫu tích
hạch nách dưới cánh tay. Những bệnh nhân với ung thư biểu mô ống tại chỗ được
cắt bỏ vú không cần thiết phải phẫu tích lấy hạch nách.
Có
các hình thái phẫu thuật cắt bỏ vú khác nhau và chúng khác nhau là mô vú nào
được lấy đi.
Cắt bỏ vú
triệt căn cải biên là gì?
Đây
là phương pháp phổ biến nhất trong điều trị ung thư vú hiện nay. Phẫu thuật này
bao gồm lấy bỏ vú và các hạch bạch huyết vùng nách. Các cơ của thành ngực không
bị lấy bỏ. Nó không làm biến dạng thành ngực như trong phẫu thuật vú triệt căn.
Nhiều ung thư vú được điều trị tốt nhất bằng cắt bỏ vú triệt căn cải biên. Nếu
ung thư quá lớn hoặc vú quá nhỏ thì không thể điều trị bảo tồn được, cắt bỏ vú
triệt căn cải biên là biện pháp lựa chọn. Trong các trường hợp ung thư có thể ở
các vùng khác của vú, cần cắt bỏ vú.
Phẫu thuật
vú triệt căn là gì?
Phẫu
thuật cắt bỏ vú triệt căn bao gồm cắt bỏ vú, hạch bạch huyết và các cơ của
thành ngực. Trước đây, đây là loại phẫu thuật duy nhất được thực hiện. Ngày nay
người ta ít thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú triệt căn.
Phẫu thuật
cắt bỏ vú đơn thuần là gì?
Phẫu
thuật này chỉ cắt bỏ vú, để lại các hạch bạch huyết của nách và các cơ của
thành ngực nguyên vẹn.
Lợi ích
của cắt bỏ vú là gì?
Phẫu
thuật cắt bó vú có thể là áp dụng cho các typ khác nhau của ung thư vú. Vì phẫu
thuật cắt bỏ vú triệt căn được coi là "chuẩn vàng", tất cả các điều
trị phẫu thuật khác phải cho kết quả sống thêm tốt bằng hoặc tốt hơn so với
phẫu thuật này. Để thực hiện tốt chỉ định phẫu thuật cắt bỏ vú, một số câu hỏi
có thể được đặt ra với cả bác sĩ và phẫu thuật viên:
1.
Vú của bệnh nhân có quá nhỏ với
phương pháp phẫu thuật bảo tồn?
2.
Ung thư có quá lớn với phẫu thuật
bảo tồn?
3.
Typ ung thư có phải là typ có khả
năng tái phát hoặc kết hợp với một ung thư khác ở vú?
4.
Phẫu thuật tạo hình lại vú có mang
lại kết quả thẩm mỹ tốt hơn phẫu thuật bảo tồn vú không?
Xạ trị không cần thiết sau phẫu
thuật cắt bỏ vú triệt căn cải biên.
Một
số bệnh nhân không chấp nhận xạ trị trong 6 đến 8 tuần sau phẫu thuật. Vì chỉ
cần một thời gian sau phẫu thuật cắt bỏ vú là thời gian bình phục sau phẫu
thuật, nhiều người kkhông muốn xạ trị sau phẫu thuật và chấp nhận phẫu thuật
cắt bỏ vú.
Làm thế nào để có được vẻ ngoài bình
thường khi mặc áo sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú?
Thường
thường người ta dùng mút độn cài vào áo nâng ngực. Cũng có thể dùng phẫu thuật
tạo hình lại vú. Phẫu thuật này phổ biến ở các nước phát triển, nhưng chưa phổ
biến ở Việt nam. ở một số nước phẫu thụat tạo hình lại vú được thực hiện ngay
trong phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc một thời gian sau phẫu thuật.
Sự lựa
chọn
Chọn loại
phẫu thuật nào?
Ung
thư ở mỗi bệnh nhân khác nhau và không có một câu trả lời đúng cho tất cả các
trường hợp. Loại ung thư vú và giai đoạn ung thư quyết định loại phẫu thuật
được áp dụng.
Mỗi
câu hỏi của mỗi bệnh nhân cần được trả lời thoả đáng cho trường hợp cụ thể của
người bệnh. Điều trị ung thư của mỗi cá thể cần phù hợp với từng trường hợp cụ
thể. Phẫu thuật cần được thảo luận một cách kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Đối
với người phụ nữ thường đây là sự lựa chọn các nhân và không ai quyết định hộ
được. Tuy nhiên khi không đủ sự hiểu biết cần thiết bệnh nhân cần tuân thủ
quyết định của bác sĩ.
Sau phẫu
thuật
Đối
với phẫu thuật vú, cũng như với bất kỳ phẫu thuật nào, có thể phát sinh các vấn
đề cần được giải quyết.
•
Bệnh nhân sẽ được cho thuốc giảm đau
để tránh các cơn đau phát sinh.
•
Các ống dẫn lưu được đặt để tránh
tích luỹ dịch sau phẫu thuật.
•
Các ống dẫn lưu được rút khi không
còn tích luỹ dịch.
•
Các chỉ khâu được cắt bỏ trong vòng
hai tuần.
•
Đôi khi các đường cắt không liền,
cần được xử lý lại.
•
Cũng như với các phẫu thuật khác, có
thể bị nhiễm khuẩn.
Có
các bằng chứng ngày càng nhiều về sự chậm lành vết mổ ở những người hút thuốc
lá. Nicotin làm giảm lượng máu tới các mô và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và không
liền vết mổ. Điều này thể hiện rất rõ trong phẫu thuật cắt bỏ vú và phẫu thuật
tạo hình vú. Bác sĩ cần khuyên bệnh nhân từ bỏ hút thuốc lá trước bất kỳ cuộc
phẫu thuật nào. Cũng may là ở nước ta số phụ nữ hút thuốc không nhiều như ở một
số nước khác.
Cánh tay
có thể bị xưng to
Sau
phẫu thuật loại bỏ hạch, cánh tay có thể bị xưng. Tuy nhiên đây không phải là
vấn đề nghiêm trọng.
Có thể có
mất cảm giác của cánh tay
Trong
mọi loại phẫu thuật vú, các dây thần kinh cảm giác của mặt sau cánh tay có thể
bị tổn hại. Nó có thể hồi phục hoặc không theo thời gian. Tuy nhiên ngay cả khi
không hồi phục, đây chỉ là vấn đề nhỏ.
Vận động
của vai và cánh tay có thể bị ảnh hưởng?
Sau
phẫu thuật, vận động của vai và cánh tay có thể bị giới hạn. Để dự phòng khả
năng này, điều quan trọng là phải luyện tập theo sự hướng dẫn của bác sĩ. Vật
lý trị liệu có thể cần thiết cho một số bệnh nhân.
ĐIỀU
TRỊ BỔ TRỢ
Sau
phẫu thuật, phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, bệnh nhân có thể cần được điều trị bổ
trợ. Đó là điều trị bổ sung để nâng cao hiệu quả của điều trị phẫu thuật. Điều
trị bổ trợ cũng nhằm mục đích làm giảm nguy cơ tái phát và tăng cơ hội chữa
khỏi bệnh hoàn toàn. Việc lựa chọn điều trị bao gồm điều trị hoá chất, điều trị
nội tiết tố và xạ trị và các biện pháp điều trị khác.
Điều
trị hoá chất (hoá trị)
Mặc
dù khối u được loại bỏ bằng phẫu thuật, thường có nguy cơ tái phát vì có thể có
các tế bào ung thư đã lan tràn đến các vị trí xa trong cơ thể.
Để làm giảm
nguy cơ tái phát của bệnh, nhiều bệnh nhân được điều trị hoá chất.
Điều
trị hoá chất là sử dụng các thuốc "giết" tế bào ung thư, các thuốc
này đi khắp cơ thể. Các thuốc này thường được truyền theo đường tĩnh mạch.
Điều
trị hoá chất phụ thuộc vào loại ung thư và việc đánh giá tất cả các yếu
tố tiên lượng để xem liệu đã có các tế
bào ung thư ở các vị trí khác của cơ thể chưa.
Giai
đoạn ung thư càng cao thì việc điều trị hoá chất càng quan trọng, tuy nhiên
ngay cả những bệnh nhân ở giai đoạn I, điều trị hoá chất vẫn có lợi trong một
số trường hợp.
Ở
những bệnh nhân giai đoạn sớm, nguy cơ tái phát có thể nhỏ, và vì vậy ích lợi
của điều trị hoá chất còn nhỏ hơn.
Tuy
nhiên lợi ích của điều trị hoá chất cần được thông báo với hầu hết các bệnh
nhân mắc ung thư vú và họ có thể quyết định liệu lợi ích của điều trị hoá chất
có vượt qua các tác dụng phụ của thuốc trong trường hợp cụ thể của từng bệnh
nhân.
Có
nhiều thuốc điều trị hoá chất khác nhau và thuốc thường được dùng kết hợp trong
3 đến 6 tháng sau phẫu thuật.
Tuỳ
thuộc vào chế độ hoá trị được dùng, bệnh nhân có thể được dùng thuốc sau mỗi
đợt 3 hoặc 4 tuần.
Điều
trị hoá chất phải được thực hiện ở bệnh viện vì nhiều loại thuốc phải được
truyền qua đường truyền tĩnh mạch.
Hai
phác đồ điều trị ung thư vú phổ biến nhất là phác đồ AC (gồm hai loại thuốc là
doxorubicin và cyclophosphamide) trong 3 tháng hoặc CMF (gồm ba loại thuốc
(cyclophosphamide, metrothexate và fluoracil) trong 6 tháng.
Có
những lợi ích và bất lợi với mỗi phác đồ trên và thường bác sĩ ung thư nội khoa
sẽ thảo luận với bệnh nhân về việc lựa chọn phác đồ nào.
Dựa
trên tình trạng sức khoẻ và nguyện vọng của bệnh nhân và các tác dụng phụ mà
bệnh nhân muốn tránh, bệnh nhân có thể trao đổi ý kiến với bác sĩ để chọn được
một phác đồ điều trị tốt nhất cho mình.
Đôi
khi bệnh nhân bị tái phát ung thư hoặc có bệnh bệnh ngoài tuyến vú ở vào giai
đoạn IV. Tất cả các bệnh nhân này cần được điều trị hoá chất và nhiều
loại thuốc khác nhau có thể được dùng
thử cho đến khi đạt được sự đáp ứng với thuốc.
Đôi
khi cần điều trị hoá chất trước mổ, phương thức này được gọi là điều trị hoá
chất tân bổ trợ (bổ trợ mới). Phương thức này thường áp dụng cho những ung thư
rất muộn để làm cho ung thư thu nhỏ trước khi có thể điều trị phẫu thuật.
Xạ trị
Ung
thư vú thường được điều trị tia xạ (xạ trị)
Xạ
trị sử dụng các tia năng lượng cao (giống như tia X) để "giết" các tế
bào ung thư.
Các
tia này có nguồn gốc từ một nguồn bên ngoài và tổng cộng thời gian điều trị
thường là 6 tuần ở một trung tâm điều trị tia xạ.
Xạ
trị chỉ kéo dài một ít phút và không đau.
Xạ
trị sử dụng cho tất cả các bệnh nhân được điều trị bảo tồn tuyến vú.
Xạ
trị cũng áp dụng cho các bệnh nhân sau cắt bỏ vú có u lớn, xâm nhập hạch bạch
huyết hoặc có vùng mép cắt hẹp và còn tế bào ung thư (vùng mép cắt dương tính).
Xạ
trị là quan trọng để làm giảm nguy cơ tái phát tại chỗ và thường được áp dụng
cho những bệnh nhân giai đoạn muộn hơn để giết các tế bào ung thư có thể sống
trong các hạch bạch huyết.
Bệnh
nhân có thể hỏi thêm bác sĩ phụ trách xạ trị về ích lợi, quá trình tiến hành và
tác dụng phụ của xạ trị trong trường hợp cụ thể của mình.
Điều
trị nội tiết tố
Khi
xét nghiệm khối u vú bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ xác định liệu khối u vú có chứa
các thụ thể estrogen và progesteron hay không.
Các
bệnh nhân có u bộc lộ thụ thể estrogen sẽ được điều trị bằng thuốc ức chế
estrogen được gọi là Tamoxifen.
Tamoxifen
được sử dụng dưới dạng viên trong 5 năm sau phẫu thuật.
Thuốc
này đã được chứng minh là làm giảm rõ rệt nguy cơ tái phát nếu mô ung thư bộc
lộ các thụ thể estrogen.
Tuy
nhiên các tác dụng phụ kết hợp phổ biến với Tamoxifen bao gồm tăng cân, cơn bốc
nóng, chảy dịch âm đạo có thể làm bệnh nhân lo lắng.
Cũng
có các tác dụng phụ rất ít gặp như hình thành cặn đông máu, đột quỵ hoặc ung
thư tử cung làm cho bệnh nhân hoảng sợ khi quyết định sử dụng thuốc.
Bệnh
nhân cần nhớ rằng nguy cơ tái phát ung thư thường cao hơn nguy cơ gặp những vấn
đề nghiêm trọng đối với Tamoxifen, tuy nhiên quyết định điều trị nội tiết tố là
tuỳ bệnh nhân sau khi đã được bác sĩ giải thích rõ trường hợp cụ thể của mình.
Hiện
nay cũng đã có các loại thuốc mới được gọi là các chất ức chế men aromatase
(một loại enzym) có tác dụng làm giảm việc cung cấp estrogen của cơ thể. Các
thuốc này dành cho những bệnh nhân đã mãn kinh.
Các bệnh nhân cũng cần được các bác sĩ giải thích rõ về
việc dùng loại thuốc này.
Điều
trị sinh học
Các
bác sĩ giải phẫu bệnh cũng xét nghiệm khối u để tìm xem u có bộc lộ quá mức
Her-2/neu.
Her-2/neu
cũng là một thụ thể có trong một số ung thư vú.
Ung
thư vú có thụ thể này có nguy cơ tái phát cao hơn sau phẫu thuật.
Một
hỗn hợp được gọi là Herceptin (hoặc Trastuzumab) là một chất ức chế thụ thể này
và làm ung thư vú ngừng phát triển.
Một
số bệnh nhân được dùng loại thuốc này.
CÁC
TÁC DỤNG PHỤ CỦA ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ
Vì
điều trị ung thư vú cũng có thể phá huỷ các tế bào và các mô lành, những tác
dụng phụ không mong muốn là phổ biến. Các tác dụng phụ phụ thuộc chủ yếu trên
loại và độ rộng của điều trị. Các tác dụng phụ có thể không giống nhau ở mỗi
phụ nữ và thậm chí với các phụ nữ có cùng một cách điều trị. Tác dụng phụ ở một
phụ nữ cũng có thể thay đổi từ đợt điều trị này qua đợt điều trị khác. Bác sĩ
điều trị sẽ cắt nghĩa cho bệnh nhân các tác dụng phụ có thể xảy ra và việc khắc
phục nó như thế nào.
Phẫu
thuật vú
Phẫu
thuật có thể gây đau trong một thời gian ngắn và căng da ở vùng phẫu thuật.
Trước phẫu thuật bệnh nhân có thể hỏi cán bộ y tế về việc khắc phục tình trạng
đau như thế nào. Giống như mọi cuộc phẫu thuật khác, phẫu thuật vú cũng có thể
có nguy cơ nhiễm khuẩn, chảy máu và các vấn đề khác. Nếu thấy có vấn đề gì bất
thường, cần nói với cán bộ y tế để có cách giải quyết đúng.
Phẫu
thuật cắt bỏ một hoặc cả hai vú có thể làm cho người phụ nữ cảm thấy có sự thay
đổi về sự mất cân bằng, đặc biệt nếu bệnh nhân có vú khối lượng lớn. Sự mất cân
bằng này có thể gây khó chịu ở vùng cổ và lưng. Da ở vùng vú được cắt bỏ có thể
căng. Các cơ của cánh tay và vai có thể cảm thấy ít linh hoạt và yếu, nhưng
những biểu hiện này chỉ là tạm thời. Bác sĩ và điều dưỡng viên có thể khuyên
bệnh nhân luyện tập để giúp bệnh nhân vận động trở lại và làm cho cánh tay và
vai khoẻ dần.
Vì
các dây thần kinh có thể bị tổn thương hoặc bị cắt trong phẫu thuật, người phụ
nữ có thể thấy tê và cảm giác khó chịu ở thành ngực, nách, vai và cánh tay. Các
cảm giác này có thể mất đi sau vài tuần hay vài tháng nhưng với một số phụ nữ,
cảm giác tê không mất đi.
Phù
bạch mạch
Lấy
các hạch bạch huyết ở nách làm chậm dòng chảy dịch bạch huyết. Dịch có thể hình
thành ở cánh tay và bàn tay. Các phụ nữ phải bảo vệ cánh
tay và bàn tay của mình ở bên điều trị
trong suốt những năm tháng sau điều trị:
•
Tránh mặc áo chật hoặc đeo đồ trang
sức ở bên tay bị bệnh.
•
Mang túi nhỏ hoặc va-li bằng tay
khác.
•
Thử máu hoặc đo huyết áp trên tay
khác.
•
Đeo găng để bảo vệ tay khi làm vườn
hay khi dùng các chất tẩy rửa.
•
Thận trọng khi cắt sửa móng tay và
tránh cắt vào da đầu ngón tay.
•
Tránh bỏng hoặc bỏng nắng ở tay bị
nạo vét hạch.
Người
phụ nữ cần hỏi bác sĩ phải xử lý như thế nào nếu có các vết cắt trên da tay,
vết cắn của ký sinh trùng, bỏng nắng hoặc các tổn thương khác trên cánh tay và
tay bên nạo vét hạch. Bệnh nhân cũng cần đi khám bác sĩ nếu cánh tay hoặc tay
bị tổn thương, xưng hoặc bị đỏ và nóng.
Nếu
phù bạch mạch xảy ra, bác sĩ có thể hướng dẫn cách luyện tập và các phương pháp
đối phó với vấn đề này. Chẳng hạn bệnh nhân có thể mặc một tay áo chun giãn để
cải thiện tuần hoàn bạch mạch. Bác sĩ cũng có thể hướng dẫn các phương pháp
khác, như dùng thuốc, dẫn lưu tuần hoàn bạch mạch bằng tay (xoa bóp) hoặc sử
dụng một máy ép nhẹ cánh tay. Bệnh nhân cũng có thể đến các cơ sở vật lý trị
liệu để được xử lý thích hợp.
Xạ trị
Trong
quá trình xạ trị, bệnh nhân ung thư vú có thể trở nên mệt mỏi, nhất là vào cuối
đợt điều trị. Cảm giác này có thể tiếp tục kéo dài một thời gian ngắn sau khi
điều trị kết thúc. Nghỉ ngơi là quan trọng nhưng bác sĩ cũng thường khuyên bệnh
nhân cố gắng hoạt động đến mức có thể được.
Cũng
phổ biến là da vùng điều trị trở nên đỏ, khô, căng và ngứa. Bệnh nhân có thể có
cảm giác nặng và căng ở vú trong trường hợp xạ trị sau điều trị bảo tổn. Các
vấn đề này sẽ mất đi theo thời gian. Vào cuối đợt điều trị da có thể trở nên ẩm
ướt và "ứa nước". Để các vùng da này tiếp xúc với không khí nhiều
nhất có thể được có thể hết các biểu hiện này.
Vì
áo con và một số loại quần áo khác có thể chà xát da và gây kích thích, bệnh
nhân có thể mặc các quần áo sợi bông rộng trong thời gian này. Chăm sóc da nhẹ
nhàng cũng là quan trọng và bệnh nhân cần hỏi ý kiến bác sĩ trước dùng các chất
khử mùi, thuốc rửa hoặc kem trên vùng da điều trị. Các tác dụng này của xạ trị
trên da là tạm thời và vùng này đần khỏi khi điều trị kết thúc. Tuy nhiên có
thể có thay đổi kéo dài trên da.
Hoá trị
Cũng
như xạ trị, hoá trị ảnh hưởng đến các tế bào bình thường cũng như các tế bào
ung thư. Tác dụng phụ của hoá trị chủ yếu phụ thuộc vào các thuốc đặc hiệu và
liều. Nói chung các thuốc chống ung thư ảnh hưởng đến các tế bào phân chia
nhanh, đặc biệt là:
-
Các tế bào máu: Các tế bào này có vai trò chống nhiễm khuẩn, giúp cho máu thành
cục đông làm tắc các mạch máu nhỏ bị đứt để chống chảy máu, và mang oxy tới các
vùng khác nhau của cơ thể. Khi các tế bào máu bị tổn hại, bệnh nhân dễ bị nhiễm
trùng hơn, có thể bị các vết thâm tím hoặc hoặc chảy máu dễ dàng, và có thể cảm
thấy yếu và mệt mỏi.
-
Các tế bào ở chân tóc: Hoá trị có thể dẫn đến rụng tóc. Tóc mọc lại nhưng tóc
mới có thể thay đổi màu.
-
Các tế bào phủ ống tiêu hoá: Hoá trị có thể gây nên chán ăn, nôn và buồn nôn,
ỉa chảy hoặc đau miệng, đau môi. Hầu hết các tác dụng phụ này có thể kiểm soát
được bằng thuốc.
Một
số thuốc chống ung thư có thể gây tổn hại buồng trứng. Nếu các buồng trứng bị
tổn thương ngừng sản xuất các hormon, người phụ nữ có thể có triệu chứng của
mãn kinh như cơn bốc nóng và khô âm đạo. Chu kỳ kinh của bệnh nhân có thể trở
nên không đều hoặc có thể dừng hẳn và bệnh nhân trở thành vô sinh. Với các phụ
nữ trên 35 tuổi việc không sinh đẻ trở nên vĩnh viễn.
Mặt
khác nếu người phụ nữ còn đang có khả năng sinh đẻ trong khi hoá trị, họ có thể
bị có mang trong thời gian này. Do hậu quả của hoá trị trên đứa trẻ không được
biết rõ, người phụ nữ phải trao đổi với bác sĩ về việc kiểm soát sinh đẻ trước
khi bắt đầu điều trị.
Điều trị nội tiết
Các
tác dụng phụ của điều trị nội tiết phụ thuộc chủ yếu vào thuốc đặc hiệu hoặc
loại điều trị. Tamoxifen là thuốc điều trị hormon phổ biến nhất. Nó ức chế hiệu
quả của estrogen trên tế bào. Không phải tất cả các phụ nữ dùng tamoxifen đều
có tác dụng phụ. Nói chung các tác dụng phụ của estrogen giống như một số triệu
chứng của mãn kinh. Các tác dụng phụ phổ biến nhất là cơn bốc nóng và chảy dịch
âm đạo. Một số phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt không đều, đau đầu, mệt mỏi, nôn
và/hoặc buồn nôn, khô hoặc ngứa âm đạo, kích thích của da xung quanh âm đạo và
nổi mụn nhỏ trên da.
Phụ
nữ đang hành kinh có thể có mang trong lúc đang điều trị tamoxifen. Tamoxifen
có thể có hại cho đứa bé. Các bệnh nhân cần hỏi bác sĩ về các biện pháp kiểm
soát có mang trước khi dùng tamoxifen.
Các
hậu quả nghiêm trọng của tamoxifen là hiếm gặp. Tuy nhiên nó có thể gây các cục
máu đông trong lòng các tĩnh mạch, đặc biệt ở chân và ở phổi. Ở một số nhỏ phụ
nữ, tamoxifen có thể làm tăng nhẹ nguy cơ đột quỵ. Thuốc cũng có thể gây nên
ung thư từ lớp màng phủ mặt trong tử cung (nội mạc) hoặc lớp cơ của tử cung.
Cần báo cáo với bác sĩ nếu có một chảy máu âm đạo bất thường. Bác sĩ có thể
khám vùng khung chậu, sinh thiết lớp phủ mặt trong tử cung hoặc chỉ định các
xét nghiệm khác.
Nếu
điều trị nội tiết tố bằng phẫu thuật cắt buồng trứng, người phụ nữ sẽ đi vào
mãn kinh ngay lập tức (mãn kinh nhân tạo). Các tác dụng phụ hình như trầm trọng
hơn so với các biểu hiện của mãn kinh tự nhiên. Cán bộ y tế có thể hướng dẫn
các phương pháp đối phó với các tác dụng phụ này.
Điều trị sinh học
Herceptin
là liệu pháp sinh học được sử dụng để điều trị các ung thư vú đã lan tràn. Các
tác dụng phụ xảy ra trong lần điều trị đầu tiên bằng Herceptin là sốt và rét
run. Các tác dụng phụ khác có thể xảy ra bao gồm đau, mệt, nôn, buồn nôn, ỉa
chảy, đau đầu, khó thở, và phát ban. Các tác dụng phụ này trở nên ít trầm trọng
hơn sau lần điều trị đầu tiên.
Herceptin
cũng có thể gây tổn thương tim dẫn đến suy tim. Nó cũng có thể ảnh hưởng đến
phổi gây khó thở đòi hỏi sự chú ý can thiệp ngay. Trước khi điều trị bằng
herceptin, bác sĩ phải kiểm tra tim và phổi cho bệnh nhân. Trong khi
điều trị bác sĩ phải theo dõi các dấu
hiện của các biểu hiện tổn thương tim và
phổi.
Điều trị bổ trợ và điều trị thay thế
trong ung thư vú
Một
số phụ nữ ung thư vú sử dụng các phương pháp y học bổ trợ hay thay thế để làm
giảm các stress hoặc làm giảm các tác dụng phụ và các triệu chứng:
Một
phương pháp nói chung được gọi là y học bổ trợ khi được sử dụng thêm vào với
việc điều trị được bác sĩ chỉ định.
Một
phương pháp được gọi là y học thay thế khi nó được sử dụng thay cho một điều
trị chuẩn.
Mốt
số phương pháp y học bổ trợ hay thay thế bao gồm châm cứu, xoa bóp, các sản phẩm thực vật, vitamin, chế
độ ăn. Trước khi sử dụng một trong bất kỳ các biện pháp này, bệnh nhân phải hỏi
bác sĩ về lợi ích và các nguy cơ của biện pháp bổ trợ và thay thế.
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG CỦA UNG THƯ VÚ
Tuổi
Bệnh nhân là
trước mãn kinh hay sau mãn kinh.
Kích thước
Kích thước của ung thư vú và kích
thước của vú người phụ nữ là quan trọng trong quyết định điều trị ung thư vú
như thế nào. Nếu khối ung thư quá lớn hoặc vú người phụ nữ quá nhỏ thì không
thể điều trị bảo tồn được. Điều quan trọng là phải có được vùng mép cắt không
có ung thư quanh khối u. Nếu không có được vùng mép cắt không có ung thư, có
nguy cơ là tái phát ung thư ở vùng vú còn lại. Kích thước u cũng sẽ quyết định
liệu có phải điều trị bổ trợ không. Khi một ung thư trở nên lớn hơn, nguy cơ di
căn tăng. Có ý kiến trái ngược về nhu cầu điều trị bổ trợ khi ung thư có đường
kính nhỏ hơn 1cm không có di căn hạch nách. Một số chuyên gia khuyên nên điều
trị bổ trợ cho những ung thư lớn không có di căn hạch nách.
Loại u
Loại u (typ u) được xác định là quan
trọng để quyết định điều trị như thế nào. Một số loại ung thư có thể tái phát
trừ khi cắt bỏ vú.
Các ung
thư khác nhau ở một vú
Ung thư vú có thể là một bệnh nhiều
trung tâm (có thể xảy ra cùng một lúc ở các vùng khác nhau của một vú).
Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện
khi ung thư nội ống được tìm thấy hoặc đơn độc (chỉ có một ổ), hoặc kết hợp với
ung thư xâm nhập ở ổ mô vú được sinh thiết, có nguy cơ rất cao ung thư sẽ tái
phát ở vú. Trường hợp này đòi hỏi phải cắt bỏ vú.
Hạch bạch
huyết
Nếu hạch bạch huyết ở nách bị xâm
nhập ung thư, cần điều trị thuốc bổ trợ cho những bệnh nhân này. Khi hạch bạch
huyết bị di căn, có nguy cơ cao ung thư vượt ra ngoài sự kiểm soát tại vùng và
lan tràn đâu đó trong cơ thể đòi hỏi phải có biện pháp điều trị bổ trợ.
Các thụ
thể nội tiết
Một số ung thư vú có nhu cầu hormon
để hỗ trợ cho sự phát triển. Các vị trí của các hormon này (estrogen và
progesteron) sẽ được nghiên cứu trên mô ung thư vú để quyết định điều trị bổ
trợ. Nếu các thụ thể này được tìm thấy trên mô vú (dương tính), bệnh nhân sẽ
được phẫu thuật cắt hai buồng trứng và điều trị bổ trợ bằng tamoxifen.
Đếm tế bào
dòng chảy
Một kỹ thuật tương đối mới để xác định
u phát triển nhanh như thế nào.
Các nghiên
cứu khác
Có các nghiên cứu mới hơn có thể
được thực hiện trên mô vú đã được cắt
bỏ. Yếu tố phát triển biểu bì, các gen ung thư (oncogen neu) và cathepsin D có
thể trở thành quan trọng trong tương lai.
Định giai
đoạn
Định giai đoạn có nghĩa là tất cả
các yếu tố liên quan đến ung thư vú đều được nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu có
thể là cần thiết để có được thông tin này. Thêm vào các điểm nêu trên, các
nghiên cứu có thể bao gồm chụp sàng lọc xương, chụp X quang lồng ngực, chụp
sàng lọc não hoặc gan, xét nghiệm não hoặc có thể chụp cắt lớp vi tính.
Sau khi tất cả các yếu tố tiên lượng
được xác định, ung thư được định giai đoạn. Điều này được thực hiện bằng hệ
thống định giai đoạn quốc tế giúp xác định các ung thư của mỗi cá nhân bệnh
nhân vào một nhóm (phân nhóm). Bằng cách định giai đoạn này, có thể thực hiện
việc so sánh ung thư của các bệnh nhân với nhau. Điều đó có thể chỉ rõ tiên
lượng bệnh và liệu điều trị bổ trợ có cần thiết không.
Điều cần chú ý
Tất cả các ung thư là khác nhau và
bệnh nhân ung thư vú không nên so sánh tình trạng bệnh của mình với tình trạng
bệnh của một người bạn hay một người hàng xóm với cùng một bệnh. Bệnh ung thư
của mỗi người cần được đánh giá riêng biệt. Qua việc định giai đoạn mà ung thư
của mỗi người được đánh giá riêng biệt.
THEO
DÕI SAU ĐIỀU TRỊ
Việc
kiểm tra đều đặn sau điều trị ung thư vú là quan trọng. Ngay cả khi bệnh hình
như được cắt bỏ hoặc phá huỷ hoàn toàn, bệnh đôi khi tái phát vì các tế bào ung
thư không phát hiện được đôi khi còn nằm lại ở đâu đó trong cơ thể. Cán bộ y tế
cần giám sát sự phục hồi sức khoẻ và kiểm tra sự tái phát của ung thư. Việc
kiểm tra giúp bất cứ một thay đổi nào của cơ thể cũng được ghi nhận.
Một
bệnh nhân có ung thư ở một vú bên vú cần báo cáo ngay với bác sĩ nếu có những
thay đổi ở vùng điều trị hoặc ở vú bên kia. Bệnh nhân cũng cần báo cáo với bác
sĩ nếu có bất kỳ một vấn đề sức khoẻ nào như đau, chán ăn hoặc sút cân, những
thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt, chảy máu âm đạo bất thường hoặc nhìn mờ.
Bệnh nhân cũng cần báo cáo với bác sĩ nếu các biểu hiện đau đầu, chóng mặt, hơi
thở ngắn, ho hoặc khàn tiếng, đau lưng, rối loạn tiêu hoá là bất thường và
không mất đi. Một số vấn đề có thể phát sinh sau nhiều tháng hoặc nhiều năm sau
điều trị. Nó có thể là biểu hiện của bệnh tái phát trở lại nhưng nó cũng có thể
là triệu chứng của nhiều vấn đề sức khoe khác. Điều quan trọng là
phải sớm trình bày các vấn đề này với
bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Việc
theo dõi bao gồm khám vú, thành ngực, cổ và nách. Vì phụ nữ có ung thư vú có
nguy cơ mắc ung thư trở lại, cần chụp X quang vú đã được điều trị và chụp X
quang vú cả bên không bị ung thư. Đó là vì khi đã mắc ung thư vú là có nguy cơ
tái phát và phát sinh ung thư vú bên kia. Nếu bệnh nhân đang dùng Tamoxifen,
cần khám vùng khung chậu mỗi năm một lần và nếu có chẩy máu âm đạo bất thường
cần thông báo với bác sĩ. Đôi khi bác sĩ có thể yêu cầu các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh hoặc các xét nghiệm.
Lịch theo dõi có thể thực hiện như
sau:
•
Đầu tiên bệnh nhân cần được khám lại
3- 4 tháng một lần.
•
Sau một thời gian theo dõi, nếu
không có bệnh tái phát, khoảng thời gian giữa các đợt khám lại có thể kéo dài
hơn.
•
Sau 5 năm, bệnh nhân vẫn cần đến
khám lại mỗi năm một lần.
HỖ
TRỢ VỚI CÁC PHỤ NỮ BỊ UNG THƯ VÚ
Một
chẩn doán ung thư vú có thể làm thay đổi cuộc sống của người phụ nữ và những
người thân thiết nhất với họ. Những thay đổi này có thể khó đối phó. Rất phổ
biến với các phụ nữ có thể có nhiểu cảm xúc rất khác nhau và đôi khi nhầm lẫn.
Nhiều phụ nữ thấy rằng khi có thông tin tốt và có sự giúp đỡ, họ có thể dễ dàng
đối mặt với bệnh tật.
Những
người sống với ung thư có thể lo lắng về việc gìn giữ gia đình, giữ việc làm
hoặc tiếp tục các hoạt động hàng này. Những lo lắng về việc thực hiện các xét
nghiệm, điều trị, nằm lại bệnh viện và việc thanh tóan viện phí cũng là phổ
biến. Các cán bộ y tế có thể trả lời các câu hỏi của họ về điều trị, việc làm
và các hoạt động khác. Gặp gỡ với các bạn bè, người quen trong ngành y tế có
thể giúp họ trình bày về những suy nghĩ và lo lắng của họ.
Các
bạn bè và các người thân có thể giúp họ rất nhiều. Nhiều phụ nữ còn tìm thấy sự
giúp đỡ của chính những người bị ung thư. Các phụ nữ ung thư vú có thể tập hợp
với nhau thành những nhóm hỗ trợ, ở đây họ có thể chia sẻ những gì họ đã học
được về việc đối mặt với bệnh tật và các tác dụng phụ của điều trị. Điều quan
trọng cần nhớ là hoàn cảnh và bệnh tật ở mỗi phụ nữ khác nhau. Cách thức người
phụ nữ này đối mặt với ung thư có thể không đúng với người khác. Người phụ nữ
có thể hỏi bác sĩ về những lời khuyên họ nhận được từ những phụ nữ sống sót sau
ung thư vú khác.
Có
thể tổ chức các chương trình đặc biệt cho phụ nữ bị ung thư vú. Có tể đào tạo
những phụ nữ bị ung thư vú tình nguyện có thể nói chuyện hoặc đến thăm những
phụ nữ bị ung thư vú, cung cấp những thông tin và góp phần hỗ trợ về tâm lý. Họ
có thể chia sẻ với nhau về các kinh nghiệm điều trị ung thư vú và việc thích
nghi trở lại trong cuộc sống.
Đôi
khi những phụ nữ mắc ung thư vú cũng lo lắng là những thay đổi trên cơ thể họ
sẽ ảnh hưởng đến việc nhìn họ như thế nào và những người khác cảm nghĩ về họ
như thế nào. Họ cũng có thể lo lắng về ung thư vú và việc điều trị ung thư vú
sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tình dục của họ. Nhiều cặp vợ chồng tìm thấy cần hỗ
trợ cho họ để trình bày về những lo lắng của họ.
Sự hứa hẹn của nghiên cứu ung thư vú
Nghiên
cứu dẫn đến những tiến bộ quan trọng trong ung thư vú. Các bác sĩ ở Hoa Kỳ và
các nước khác trên thế giới đang tiến hành nhiều thử nghiệm lâm sàng (nghiên
cứu có những người tình nguyện tham gia). Đó là những nghiên cứu các phương
pháp mới để dự phòng, phát hiện, chẩn đoán và điều trị ung thư. Các nhà khoa
học cũng đang nghiên cứu về các ảnh hưởng tâm lý của bệnh và các
phương pháp để cải thiện sự dễ chịu cho
bệnh nhân và chất lượng cuộc sống của họ.
Các
thử nghiệm lâm sàng nhằm trả lời những câu hỏi quan trọng và tìm kiếm liệu một
phương pháp mới có an toàn và hiệu quả không. Thường các thử nghiệm lâm sàng so
sánh các kết quả của một phương pháp mới với một phương pháp đã được thừa nhận
rộng rãi.
Các
bệnh nhân tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng có thể được hưởng lợi ích của
các phương pháp điều trị mới. Họ cũng có thể có đóng góp trọng cho y học bằng
việc giúp đỡ bác sĩ hiểu nhiều hơn về bệnh. Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng có
thể có một vài nguy cơ, các nhà nghiên cứu tiến hành nhiều bước để bảo vệ bệnh
nhân của mình.
Các
câu hỏi bệnh nhân có thể sử dụng hỏi bác sĩ để biết rõ hơn về trường hợp cụ thể
của mình
Về
sinh thiết
Tôi
sẽ được tiến hành loại sinh thiết nào? Vì sao?
Sinh
thiết sẽ kéo dài trong bao lâu? Tôi có bị đau không? Có phải gây mê hay gây tê
không?
Sau
bao lâu tôi sẽ biết kết quả sinh thiết?
Sinh thiết có
nguy cơ gì? Có bị nhiễm trùng hay chảy máu sau sinh thiết không?
Nếu
tôi bị ung thư, ai sẽ nói với tôi về điều trị?
Về
giai đoạn ung thư
Tôi
đang mắc loại ung thư nào?
Kết
quả xét nghiệm thụ thể nội tiết của tôi ra sao? Các xét nghiệm nào khác được
thực hiện trên mô u, kết quả ra sao?
Bệnh
của tôi ở vào giai đoạn nào? Ung thư đã lan tràn chưa?
Những
thông tin trên sẽ giúp cho việc quyết định tôi cần theo loại điều trị nào và các xét nghiệm gì tôi cần
thực hiện tiếp?
Các câu hỏi trước khi bắt đầu điều
trị
Cách
điều trị chọn lọc của tôi là gì? Bác sĩ khuyên tôi cách điều trị nào là tốt
nhất? Vì sao?
Lợi
ích của mỗi loại điều trị là gì?
Nguy
cơ và các tác dụng phụ của mỗi loại điều trị?
Điều
trị của tôi sẽ hết bao nhiêu tiền? Bảo hiểm y tế có thanh toán cho việc điều
trị của tôi không?
Điều
trị có ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tôi không?
Có
thử nghiệm lâm sàng nào thích hợp với tôi không?
Về điều trị phẫu thuật
Loại
phẫu thuật nào tôi được xem xét? Tôi có được điều trị bảo tồn không? Loại phẫu
thuật nào thích hợp nhất với tôi? Nguy cơ của phẫu thuật là gì?
Phẫu
thuật vét hạch nách có áp dụng với tôi không? Vì sao?
Tôi
sẽ có cảm giác như thế nào sau phẫu thuật? Tôi sẽ phải ở trong bệnh viện bao
nhiêu lâu?
Tôi
sẽ phải tự chăm sóc mình và chăm sóc vết mổ như thế nào sau khi tôi về nhà?
Sẹo
mổ sẽ ở đâu? Vết sẹo trông như thế nào?
Tôi
cần phải luyện tập như thế nào để lấy lại cảm giác và sức mạnh của tay và vai?
Tôi có cần sự hướng dẫn của bác sĩ liệu pháp vật lý hay điều dưỡng viên hướng dẫn luyện tập không?
Khi
nào tôi có thể hoạt động bình thường trở lại? Cần tránh những hoạt động gì?
Các câu hỏi trước khi xạ trị
Vì
sao biện pháp điều trị này là cần thiết với tôi?
Các
lợi ích, nguy cơ và tác dụng phụ của điều trị này là gì? Da tôi có bị hư hại
không?
Điều
trị này có tác dụng kéo đài không?
Khi
nào điều trị bắt đầu? Làm thế nào để biết được việc điều trị của tôi đang tiến
triển? Khi nào điều trị sẽ kết thúc?
Tôi
sẽ cảm thấy như thế nào trong khi đang điều trị?
Tôi
sẽ phải tự chăm sóc như thế nào trước, trong và sau khi điều trị?
Tôi
có thể tiếp tục các hoạt động bình thường của mình được không?
Thành
ngực của tôi sẽ thấy như thế nào sau điều trị?
Nguy
cơ bệnh sẽ quay trở lại với vú của tôi như thế nào?
|