Liên Hệ | English
Danh Mục
Giới thiệu
Phổ biến kiến thức
Tư vấn
Cuộc sống sau điều trị
Bệnh học ung thư
Dịch vụ y tế
Ung thư trẻ em
Công trình nghiên cứu
Diễn dàn
Tin tức & Sự kiện
Hợp tác
Liên hệ
Đường dây nóng
Liên Kết Website
Tìm kiếm
 
Counter engine
HTML Hit Counters
Giới thiệu

Ung thư tuyến tiền liệt

Đặt vấn đề
         Ung thư tuyến tiền liệt là ung thư của một tuyến hình quả hồ đào nhỏ ở nam giới. Tuyến này sản xuất tinh dịch, một dịch nuôi dưỡng và vận chuyển tinh trùng.
         Đối với nhiều nam giới, một chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt có thể là sự khiếp sợ, không chỉ vì sự đe doạ đến đời sống của họ mà còn đe doạ đến khả năng tình dục của họ. Thực ra, những hậu quả có thể xảy ra của việc điều trị ung thư tuyến tiền liệt- bao gồm những khó khăn về kiểm soát bàng quang và rối loạn hoặc không đủ khả năng cương cứng dương vật- có thể là mối quan tâm lớn cho một số nam giới.
         Nếu ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện sớm khi nó còn giới hạn ở tuyến tiền liệt- bạn có cơ hội được điều trị có hiệu quả tốt hơn với những tác dụng phụ tối thiểu hoặc ngắn hạn. Việc điều trị có hiệu quả ung thư tuyến tiền liệt đã lan tràn ra ngoài tuyến tiền liệt có khó khăn hơn. Tuy nhiên, những phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt hiện có có thể giúp kiểm soát ung thư tuyến tiền liệt
Những dấu hiệu và triệu chứng
         Ung thư tuyến tiền liệt thường không gây bất cứ triệu chứng nào trong những giai đoạn sớm của nó. Đó là lý do vì sao nhiều trường hợp ung thư tuyến tiền liệt không được phát hiện cho đến khi ung thư đã lan tràn ra ngoài tuyến.
          Khi những dấu hiệu và triệu chứng xảy ra, chúng có thể bao gồm:
          Đau ê ẩm trong vùng hố chậu thấp
          Đi tiểu khẩn cấp
          Khó bắt đầu đi tiểu
          Đau khi đi tiểu
          Dòng nước tiểu yếu và nhỏ giọt
          Dòng chảy nước tiểu ngắt quãng
          Cảm giác bàng quang không rỗng
          Đi tiểu nhiều về đêm
          Có máu trong nước tiểu
          Đau khi phóng tinh
          Đau ở vùng lưng thấp, háng hoặc đùi trên
          Chán ăn và sút cân
          Đau xương dai dẳng
Những nguyên nhân
         Ung thư là một nhóm các tế bào bất thường phát triển nhanh hơn nhiều so với các tế bào bình thường và từ chối sự chết. Các tế bào ung thư cũng có khả năng xâm nhập và phá huỷ các mô bình thường hoặc bằng việc phát triển một cách trực tiếp các cấu trúc xung quanh hoặc di chuyển đến một vùng khác của cơ thể bạn qua dòng máu hoặc hệ thống bạch huyết. Những tế bào ung thư phát triển thành những cụm nhỏ tiếp tục phát triển, trở nên dày đặc tế bào hơn và làm cho tuyến trở nên cứng.
         Tuyến tiền liệt là một tuyến nhỏ, hình quả đào vây quanh phần dưới (“cổ”) của bàng quang nam giới và khoảng 2,5cm đầu tiên của niệu đạo, ống dẫn nước tiểu từ bàng quang đi ra. Nó nằm ở sau xương mu và phía trước trực tràng. Chức năng đầu tiên của tuyến tiền liệt là sản xuất ra tinh dịch, một dịch nuôi dưỡng và vận chuyển tinh trùng.
         Ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển chậm và ban đầu còn giới hạn ở trong tuyến tiền liệt, ở đây nó không gây nên tác hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu để không điều trị, ung thư tuyến tiền liệt có thể bắt đầu xâm nhập vào các mô và gây nên tổn thương và nó có thể lan tràn đến các phần khác của cơ thể, ở đây nó gây nên tác hại có ý nghĩa. Một số thể của ung thư tuyến tiền liệt xâm lấn mạnh và có thể lan tràn nhanh đến các phần khác của cơ thể.
         Cái gì gây nên ung thư tuyến tiền liệt và vì sao một số typ có diễn biến khác nhau thì chưa được biết rõ. Những nghiên cứu đã chỉ rõ rằng sự kết hợp của các yếu tố có thể có vai trò bao gồm di truyền, dân tộc, hormon, chế độ ăn và môi trường.
Những yếu tố nguy cơ
         Việc hiểu biết các yếu tố nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt có thể giúp bạn quyết định khi nào bạn cần bắt đầu sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt. Những yếu tố nguy cơ chính bao gồm:
          Tuổi. Khi bạn trở nên già hơn, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng. Sau tuổi 50, nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt tăng lên một cách cơ bản.
          Chủng tộc. Vì những lý do chưa được biết rõ, nam giới người Mỹ gốc Phi có nguy cơ phát sinh và chết vì ung thư tuyến tiền liệt cao hơn.
          Lịch sử gia đình. Nếu một thành viên gần của gia đình bị ung thư tuyến tiền liệt, cha bạn hoặc anh em bạn có thể có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt cao hơn số trung bình.
          Chế độ ăn. Chế độ ăn mỡ cao và béo phì có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt của bạn. Các nhà nghiên cứu nêu giả thuyết là mỡ làm tăng sản xuất hormon progesteron, nó có thể thúc đẩy sự phát triển của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
          Phẫu thuật để trở thành vô sinh (cắt ống dẫn tinh). Mặc dù một số nghiên cứu chỉ rõ rằng nam giới đã được phẫu thuật cắt bỏ ống dẫn tinh có tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, nhưng không có bằng chứng nào ủng hộ cho một nghiên cứu như vậy. Nghiên cứu về vấn đề này đang được tiến hành.
          Mức testosterone cao. Bởi vì testosterone kích thích sự phát triển của tuyến tiền liệt một cách tự nhiên, những người đàn ông có mức testosterone cao, chẳng hạn như những người thiểu năng sinh dục hoặc những người đàn ông sử dụng testosterone dễ phát sinh ung thư tuyến tiền liệt hơn những người đàn ông có mức testosterone thấp. Điều trị testosterone kéo dài có thể gây phì đại tuyến tiền liệt (quá sản tuyến tiền liệt lành tính). Ngoài ra, các bác sĩ cũng lo ngại là điều trị testosterone có thể kích thích sự phát triển của một ung thư tuyến tiền liệt đã có sẵn.
Khi nào cần đi khám bệnh
         Nếu bạn có khó khăn khi đi tiểu, hãy đi khám bệnh. Biểu hiện này không phải bao giờ cũng liên quan với ung thư tuyến tiền liệt, nhưng nó có thể chỉ là một dấu hiệu của những biểu hiện bệnh tuyến tiền liệt. Nếu bạn là nam giới trên 50 tuổi, bạn hãy gặp bác sĩ để hỏi về việc sàng lọc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Bác sĩ có thể yêu cầu khám sàng lọc bệnh hàng năm bằng siêu âm hoặc khám trực tràng.
Sàng lọc và chẩn đoán
         Ung thư tuyến tiền liệt thường không gây nên các triệu chứng. Chỉ điểm đầu tiên của bệnh có thể đến từ một xét nghiệm sàng lọc thường quy. Các xét nghiệm sàng lọc bao gồm:
          Khám trực tràng bằng ngón tay. Trong quá trình khám trực tràng, bác sĩ đưa một ngón tay có đeo găng được bôi trơn vào trực tràng của bạn để xét nghiệm tuyến tiền liệt, tuyến này ở gần trực tràng. Nếu bác sĩ tìm thấy bất kỳ một bất thường nào trong cách cấu tạo, hình dạng hoặc kích thước của tuyến, bạn có thể cần làm thêm nhiều xét nghiệm.
          Xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt PSA. Một mẫu máu được rút ra từ một tĩnh mạch và phân tích PSA, một chất được sản xuất một cách tự nhiên bởi tuyến tiền liệt để giúp làm hoá nước tinh dịch. Một lượng nhỏ PSA đi vào dòng máu là bình thường. Tuy nhiên, nếu một mức PSA cao hơn bình thường được tìm thấy, có thể là một chỉ điểm của nhiễm khuẩn, viêm, phì đại hoặc ung thư của tuyến tiền liệt.
          Siêu âm qua trực tràng. Nếu các xét nghiệm khác gây nghi ngờ, bác sĩ có thể sử dụng siêu âm qua trực tràng để đánh giá tiếp tuyến tiền liệt của bạn. Một máy dò nhỏ, có kích thước và hình dạng của một điếu xì gà được đưa vào trực tràng của bạn. Máy dò sử dụng các sóng âm để tạo nên hình ảnh của tuyến tiền liệt của bạn.
Sinh thiết tuyến tiền liệt
         Nếu những kết quả xét nghiệm ban đầu nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt, bác sĩ có thể yêu cầu làm một sinh thiết. Trong khi sinh thiết, những mẫu mô nhỏ được lấy và phân tích để quyết định có ung thư không.
         Để làm sinh thiết, bác sĩ đưa một đầu dò siêu âm vào trực tràng. Được hướng dẫn bởi những hình ảnh từ máy dò, bác sĩ sẽ xác định tất cả những vùng nghi ngờ. Sau đó một kim rỗng được đưa vào các vùng này của tuyến tiền liệt. Một lò so đẩy kim vào tuyến tiền liệt của bạn và lấy được các lát cắt mô rất mỏng.
         Nếu một vùng bất thường được tìm thấy trên siêu âm qua trực tràng, bác sĩ sẽ làm sinh thiết vùng này. Nếu không có bất thường được tìm thấy, tám lát cắt khác nhau được lấy từ các vùng khác nhau của tuyến tiền liệt (số lát cắt này cũng tuỳ thuộc vào quyết định của từng bác sĩ). Những tuyến tiền liệt rất lớn có thể đòi hỏi nhiều hơn 8 sinh thiết để đánh giá một cách đầy đủ tuyến có bị ung thư không. Một nhà giải phẫu bệnh chuyên chẩn đoán ung thư và các bất thường khác của mô đánh giá mẫu sinh thiết. Qua đánh giá, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ cho biết mô được lấy ra có phải là ung thư không và ước đoán ung thư xâm lấn như thế nào.
Xác định ung thư đã lan tràn đến đâu
         Một khi chẩn đoán ung thư được xác định, bạn có thể cần được làm các xét nghiệm khác để xác định xem ung thư đã lan tràn xa chưa. Nhiều người không cần các nghiên cứu tiếp và có thể điều trị một cách trực tiếp dựa trên các đặc điểm của u và các kết quả xét nghiệm PSA trước sinh thiết.
          Quét hình xương. Quét hình xương là ghi hình ảnh của bộ xương để xác định ung thư đã lan tràn tới xương chưa. Ung thư tuyến tiền liệt có thể lan tràn tới bất kỳ xương nào trong cơ thể bạn chứ không phải chỉ tới những xương ở gần tuyến tiền liệt như xương chậu hoặc xương sống của bạn.
          Siêu âm. Siêu âm không chỉ giúp cho biết ung thư có hiện diện không mà còn có thể phát hiện bệnh có lan tràn ra các ổ ở gần không.
          Chụp cắt lớp vi tính (CT). Chụp cắt lớp vi tính tạo nên những hình ảnh cắt ngang của cơ thể bạn. Chụp cắt lớp vi tính có thể phát hiện các hạch to hoặc những bất thường của các cơ quan khác, nhưng không thể xác định được những bất thường này có thể gây nên do ung thư không. Vì vậy, chụp cắt lớp vi tính có lợi nhất khi kết hợp với các xét nghiệm khác.
          Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI). Loại chẩn đoán hình ảnh này tạo nên những hình ảnh cắt ngang chi tiết của cơ thể bạn khi sử dụng các nam châm và sóng radio. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân giúp phát hiện bằng chứng về sự lan tràn có thể của ung thư tới các hạch bạch huyết và các xương.
          Sinh thiết hạch bạch huyết. Nếu các hạch to được tìm thấy trên chụp cắt lớp vi tính hoặc trên chụp cộng hưởng từ hạt nhân, một sinh thiết hạch có thể xác định ung thư đã lan tràn tới các hạch ở gần hay chưa. Trong phương pháp này, một số hạch bạch huyết ở gần tuyến tiền liệt được lấy ra và xét nghiệm dưới kính hiển vi xem có các tế bào ung thư không.
Xác định độ
         Khi một sinh thiết xác định có các tế bào ung thư, bước tiếp theo được gọi là xác định độ, là nhằm xác định ung thư xâm lấn như thế nào. Các mẫu mô được nghiên cứu và các tế bào ung thư được so sánh với các tế bào của tuyến tiền liệt lành tính. Những tế bào ung thư càng khác nhiều hơn với các tế bào lành tính, ung thư càng xâm lấn nhiều hơn và càng lan tràn nhanh hơn.
         Những tế bào ung thư có thể thay đổi về hình dạng và kích thước. Một số tế bào có thể xâm lấn trong khi các tế bào khác không xâm lấn. Bác sĩ giải phẫu bệnh xác định hai typ xâm lấn nhất của các tế bào ung thư khi xác định độ mô học.
         Thang độ ung thư phổ biến nhất được xếp từ 1 đến 5 với độ 1 là thể ít xâm lấn nhất của ung thư. Thang độ này được gọi là số điểm Gleason (Gờ-li-son), các số này có thể có lợi cho việc quyết định sự lựa chọn điều trị nào có lợi cho bạn. Điểm Gleason thêm vào các độ của hai typ ung thư xâm lấn nhất, vì vậy điểm có thể trong giới hạn từ 2 (ung thư không xâm lấn) đến 10 (ung thư xâm lấn rất mạnh).
Định giai đoạn
         Sau khi mức xâm lấn của ung thư tuyến tiền liệt của bạn đã được biết, bước tiếp theo được gọi là định giai đoạn. Đó là việc xác định liệu ung thư của bạn đã lan rộng chưa và lan rộng đến đâu. Ung thư của bạn sẽ được xếp vào một trong bốn giai đoạn:
          Giai đoạn I. Ung thư ở giai đoạn rất sớm, chỉ khư trú ở một vùng vi thể (chỉ nhìn thấy dưới kính hiển vi), bác sĩ không thể sờ thấy.
          Giai đoạn II. Ung thư đã có thể sờ thấy được, nhưng nó còn giới hạn trong tuyến tiền liệt.
          Giai đoạn III. Ung thư đã có thể lan tràn ra ngoài tuyến tiền liệt tới túi tinh và các mô khác ở gần.
          Giai đoạn IV. Ung thư đã lan tràn đến các hạch bạch huyết, xương, phổi và các cơ quan khác.
Những biến chứng
         Những biến chứng của ung thư tuyến tiền liệt liên quan với cả bệnh và việc điều trị bệnh. Một trong những nỗi sợ hãi nhất của nhiều người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt là việc điều trị chứng không kìm được sự bài tiết nước tiểu và liệt dương. May mắn là việc điều trị giúp đối phó với hoặc xử lý những tình trạng này là có thể được.
         Những biến chứng điển hình của ung thư tuyến tiền liệt và việc điều trị bao gồm:
          Sự lan tràn của ung thư. Ung thư tuyến tiền liệt có thể lan tràn tới các cơ quan ở gần và xương và có thể đe doạ đến đời sống.
          Đau. Mặc dù ung thư tuyến tiền liệt không đau nhiều một cách điển hình, một khi bệnh di căn tới xương, nó có thể gây đau, có thể đau nặng. Những biện pháp điều trị nhằm làm co nhỏ khối ung thư thường có thể gây giảm đau có ý nghĩa. Những biện pháp điều trị này bao gồm điều trị hormon, xạ trị và hoá trị. Nếu những phương pháp điều trị này không có kết quả hoặc trong khi chờ đợi chúng có tác dụng, việc làm giảm đau bằng thuốc là một sự lựa chọn. Các thuốc giảm đau có thể từ các thuốc chống đau nhẹ tới thuốc mê.
         Không phải tất cả mọi người có ung thư lan tràn tới xương đều gây đau. Đau là có thể kiểm soát được và vì vậy không có lý do gì một người phải chịu đau dữ dội. Trong khi không thể làm cho mọi đau đớn của bạn biến mất, bác sĩ cố gắng kiểm soát cơn đau của bạn tới điểm bạn thấy dễ chịu.
          Không nhịn đi tiểu được. Cả ung thư tuyến tiền liệt và việc điều trị nó có thể gây nên không nhịn đi tiểu được sau khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt. Việc lựa chọn điều trị phụ thuộc vào loại không nhịn đi tiểu được bạn mắc phải, nó nặng như thế nào và khả năng biểu hiện này được cải thiện. Điều trị chứng này có thể bao gồm thay đổi thói quen (chẳng hạn như đi tiểu theo thời gian ấn định thay vì theo sự ép buộc), tập luyện để tăng cường sức mạnh của các cơ khung chậu (được gọi một cách phổ biến là luyện tập Kegel), các thuốc và đặt ống thông.
         Nếu việc rỉ nước tiểu tiếp diễn trong một thời gian dài không được cải thiện, bác sĩ có thể gợi ý những biện pháp can thiệp xâm phạm hơn. Những biện pháp này có thể bao gồm cấy ghép cơ thắt niệu đạo nhân tạo, đặt một băng đeo bằng vật liệu tổng hợp để ép niệu đạo hoặc tiêm những tác nhân khối lượng lớn vào niêm mạc niệu đạo để làm giảm rỉ nước tiểu.
          Rối loạn cương cứng dương vật hoặc liệt dương. Cũng giống như không nhịn đi tiểu được, rối loạn cương cứng dương vật có thể là hậu quả của ung thư tuyến tiền liệt hoặc việc điều trị bệnh. Thuốc và các thiết bị chân không hỗ trợ cho việc đạt được sự cương cứng đã có sẵn để điều trị rối loạn cương cứng. Các thuốc bao gồm sildenafil (Viagra), tadalafil (Cialis) và vardinafil (Levitra). Nếu các biện pháp điều trị thất bại, cấy ghép dương vật được đưa vào bằng phẫu thuật để giúp tạo được sự cương cứng.
          Sự trầm cảm. Nhiều bệnh nhân có thể phát sinh cảm giác chán nản sau chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt hoặc sau khi cố gắng đối phó với những tác dụng phụ của điều trị. Những cảm giác có thể chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, chúng có thể đến và đi, hoặc chúng có thể kéo dài hàng tuần hay hàng tháng. Sự trầm cảm kéo dài và cản trở khả năng tự chủ cuộc sống của bạn cần được điều trị. Việc điều trị có thể bao gồm sự tư vấn hoặc thuốc chống trầm cảm. Sự kết hợp của cả hai phương pháp thường có hiệu quả.
Điều trị
         Có nhiều cách điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Với một số bệnh nhân, việc kết hợp nhiều cách điều trị, chẳng hạn như phẫu thuật hoặc xạ trị đi kèm với liệu pháp hormon- có hiệu quả tốt nhất. Việc điều trị tốt nhất cho mỗi người phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Những yếu tố này bao gồm ung thư phát triển nhanh như thế nào, ung thư đã lan tràn đến mức nào, tuổi thọ dự tính của bạn cũng như lợi ích và các tác dụng phụ mạnh của việc điều trị.
Những phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt bao gồm:
Xạ trị
         Bạn có thể được xạ trị qua những chùm tia ngoài hoặc cấy ghép bức xạ.
          Xạ trị chùm tia ngoài. Xạ trị chùm tia ngoài sử dụng những tia X năng lượng cao để giết các tế bào ung thư khi sử dụng một máy phát ra chùm tia xạ. Loại xạ trị này có hiệu quả phá huỷ các tế bào ung thư nhưng nó cũng có thể gây sẹo hoá các mô lành nằm dưới.
         Bước đầu tiên của xạ trị là lập bản đồ của một vùng chính xác của cơ thể bạn cần nhận tia xạ. Các bác sĩ thường sử dụng quét hình ba chiều (lập thể) để xác định vị trí chính xác của tuyến tiền liệt của bạn và các cấu trúc xung quanh. Phần mềm hình ảnh vi tính giúp cho nhà ung thư học chuyên về xạ trị có khả năng tìm được những góc tốt nhất để hướng chùm tia xạ vào vùng ung thư. Nhờ sử dụng những kỹ thuật mới, nó cho phép điều chỉnh tiêu điểm một cách chính xác hơn của chùm tia xạ với sự tập trung liều tia xạ vào vùng đích- những liều lớn hơn của xạ trị có thể được đưa vào tuyến tiền liệt của bạn mà không tác hại đến mô xung quanh.
         Một thiết bị đỡ giữ cơ thể bạn ở cùng một tư thế cho mỗi lần điều trị. Bạn cũng có thể được yêu cầu đến xạ trị với một bàng quang căng đầy, nó sẽ đẩy phần lớn bàng quang của bạn ra ngoài đường đi của chùm tia. Mực đánh dấu trên da bạn giúp hướng dẫn chùm tia và (ở một số nước) những vật đánh dấu bằng vòng nhỏ được đặt vào trong tuyến tiền liệt của bạn để đảm bảo tia xạ tới được cùng đích mỗi lần. Những lá chắn giúp bảo vệ mô bình thường ở gần, chẳng hạn như bàng quang, các mô cương cứng, hậu môn, vách trực tràng. Những đợt điều trị được tiến hành 5 ngày một tuần trong khoảng 8 tuần. Mỗi lần điều trị mất khoảng 10 phút. Tuy nhiên, phần lớn thời gian này là thời gian chuẩn bị, tia xạ chỉ được chiếu trong khoảng một phút. Bạn không cần phải được gây mê với xạ trị chùm tia ngoài vì việc điều trị không đau.
         Hầu hết bệnh nhân có những tác dụng phụ nhẹ từ những loại điều trị này, nhưng hầu hết những tác dụng phụ này mất đi trong một thời gian ngắn sau khi điều trị kết thúc. Hầu hết bệnh nhân không có khó khăn trong việc cương cứng dương vật hoặc giao hợp ngay sau khi dừng xạ trị. Tuy nhiên, xạ trị có thể gây nên những tác dụng phụ ở một số đàn ông vào cuối đời. Hầu hết những người đàn ông này đáp ứng với các thuốc sử dụng cho rối loạn cương cứng. Tuổi bạn trẻ hơn, bạn sẽ có cơ hội tốt hơn duy trì chức năng sinh dục bình thường.
         Trong quá trình điều trị, một số người có khó khăn về đi tiểu là phải đi tiểu khẩn cấp hoặc đi tiểu nhiều lần. Những khó khăn này thường là tạm thời và giảm dần trong vài tuần sau khi kết thúc điều trị. Những vấn đề khó khăn lâu dài là không phổ biến.
         Những vấn đề của trực tràng- bao gồm phân lỏng, chảy máu trực tràng và khó khăn khi đi đại tiện và cảm giác bạn cần phải đi đại tiện ngay- có thể phát sinh trong khi điều trị. Một khi quá trình điều trị kết thúc, những vấn đề này thường dịu đi. Tuy nhiên, một số người tiếp tục có những rối loạn của trực tràng trong một số tháng sau điều trị, nhưng những vấn đề này tự giảm bớt ở hầu hết bệnh nhân. Hầu hết những triệu chứng trực tràng kéo dài được kiểm soát bằng thuốc. Hiếm gặp hơn, một số bệnh nhân phát sinh chảy máu kéo dài hoặc loét trực tràng sau xạ trị. Phẫu thuật có thể cần thiết để làm giảm những triệu chứng này.
          Cấy hạt phóng xạ. Các hạt phóng xạ được cấy vào tuyến tiền liệt đã thành phổ biến trong những năm mới đây như một biện pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở một số nước. Cấy ghép cũng được biết là xạ trị trong, phóng thích một liều xạ cao hơn những chùm tia ngoài, nhưng với một khoảng thời gian dài hơn một cách cơ bản.
         Trong phương pháp cấy ghép, thường kéo dài khoảng 1 đến 2 giờ, được thực hiện với gây mê toàn thân- số lượng giữa 40 và 100 hạt phóng xạ kích thước bằng hạt gạo được đặt vào tuyến tiền liệt của bạn qua những kim có sự hướng dẫn của siêu âm. Số lượng chính xác của các hạt phụ thuộc vào kích thước của tuyến tiền liệt của bạn. Liệu pháp này nói chung được sử dụng cho những bệnh nhân có tuyến tiền liệt kích thước nhỏ hoặc trung bình với những ung thư nhỏ và độ thấp. Đôi khi, điều trị hormon được sử dụng trong một số tháng để làm co nhỏ kích thước của tuyến tiền liệt trước khi các hạt được cấy ghép.
         Các hạt này có thể chứa một trong nhiều chất đồng vị phóng xạ- bao gồm iodine và pallidium. Các hạt này không phải lấy ra sau khi chúng ngừng phóng các tia xạ.
         Các hạt iodine và pallidium nói chung chỉ phóng các tia xạ ra xa ngoài vị trí của nó vài mm. Loại xạ trị này không thoát ra ngoài cơ thể bạn với những liều có ý nghĩa. Tuy nhiên, các bác sĩ thường khuyên rằng trong một số tháng đầu tiên bạn nên ở xa ít nhất 2m với các con bạn và phụ nữ đang mang thai, họ rất nhậy cảm với tia xạ. Tất cả các bức xạ trong các viên nhỏ thường cạn kiệt trong vòng một năm.
         Những tác dụng phụ của cấy ghép hạt hơi khác với xạ trị chùm tia ngoài. Cấy ghép hạt giải phóng một liều tia xạ cao hơn tới niệu đạo gây nên những dấu hiệu và triệu chứng tiết niệu, chẳng hạn như đi tiểu nhiều lần hơn, chậm hơn và đau xảy ra hầu như ở hầu hết bệnh nhân. Bạn có thể cần dùng các thuốc hoặc sử dụng ống thông nước tiểu không liên tục để giúp đi tiểu.
         Các triệu chứng tiết niệu có xu hướng nặng hơn và kéo dài hơn với cấy ghép hạt so với xạ trị chùm tia ngoài. Tuy nhiên, những triệu chứng trực tràng có thể ít phổ biến và ít trầm trọng hơn. Một số người bị liệt dương sau cấy ghép các hạt bức xạ.
Điều trị hormon
         Khi bạn bị ung thư tuyến tiền liệt, hormon nam giới (androgen) có thể kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư. Typ chính của androgen là testosterone. Liệu pháp hormon hoặc sử dụng các thuốc để làm dừng việc sản xuất các hormon nam giới của cơ thể bạn hoặc cắt bỏ các tinh hoàn, chúng sản xuất phần lớn testosterone của cơ thể bạn. Việc điều trị cũng có thể làm ngăn cản các hormon đi vào các tế bào ung thư. Đôi khi, các bác sĩ sử dụng kết hợp các thuốc để đạt cả hai mục đích trên.
         ở hầu hết những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn, loại điều trị này có hiệu quả trong việc làm chậm sự phát triển của khối u. Vì nó có hiệu quả làm co nhỏ khối u, các bác sĩ sử dụng điều trị hormon trong một số ung thư giai đoạn sớm- thường kết hợp với xạ trị và đôi khi với phẫu thuật. Các hormon làm co nhỏ các khối u lớn để phẫu thuật hoặc xạ trị có thể loại bỏ hoặc phá huỷ u dễ dàng hơn. Sau điều trị này, các thuốc có thể ức chế sự phát triển của các tế bào còn sót lại.
         Một số thuốc đã sử dụng trong điều trị hormon ức chế khả năng cơ thể của bạn sử dụng testosterone. Các hormon, được biết là các chất kích động hormon giải phóng hormon hoàng thể (LH- RH) có thể tạo nên sự phong toả hoá học. Sự phong toả này ngăn cản tinh hoàn nhận được các thông tin sản xuất testosterone. Các thuốc được sử dụng một cách điển hình trong liệu pháp hormon này bao gồm leuprolide (Lupron, Viadur) và goserelin (Zoladex), chúng được tiêm vào bắp cơ hay dưới da cho mỗi ba hoặc bốn tháng. Bạn có thể dùng thuốc trong một số tháng, một số năm hoặc suốt quãng đời của bạn, tuỳ thuộc vào tình trạng của bạn.
         Các thuốc khác sử dụng trong liệu pháp hormon ức chế khả năng cơ thể bạn sử dụng testosterone. Một lượng nhỏ testosterone đến từ các tuyến thượng thận không bị ức chế bởi leuprolide hoặc goserelin. Một số thuốc- được biết là kháng anchogen- có thể ngăn cản không cho testosterone đến được với các tế bào ung thư. Các thuốc được sử dụng phổ biến cho loại điều trị này bao gồm flutamid (Eulexin), bicalutamide (Casodex) và nilutamide (Nilandron). Những thuốc này có dạng viên và phụ thuộc vào nhãn thuốc, được dùng bằng đường uống ba lần một ngày. Các thuốc này được dùng với thuốc kích thích LH- RH.
         Việc lấy đi một cách đơn giản testosterone thường không giết được tất cả các tế bào ung thư. Sau một số năm ung thư thường học cách phát triển mạnh mà không phụ thuộc vào testosterone. Khi việc này xảy ra, điều trị hormon ít có hiệu quả. Tuy nhiên, còn có nhiều cách lựa chọn điều trị.
         Để tránh sự đề kháng này, những chương trình điều trị hormon không liên tục đã được phát triển. Trong loại điều trị này, các thuốc hormon được dừng sau khi PSA giảm tới mức thấp và còn ổn định. Bạn phải dùng thuốc lại nếu mức PSA của bạn lại tăng.
         Các tác dụng phụ của điều trị hormon bao gồm to vú, ham muốn tình dục giảm, liệt dương, cơn bốc nóng, tăng cân và giảm khối lượng cơ và xương. Một số trong các thuốc này có thể gây nôn, ỉa chảy, mệt mỏi và tổn thương gan.
         Vì phần lớn testosterone được sản xuất, việc cắt bỏ tinh hoàn cũng là một kiểu điều trị có hiệu quả- đặc biệt cho ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn. Bệnh nhân có thể không cần nằm viện và chỉ cần gây tê tại chỗ.
Cắt tuyến tiền liệt triệt căn
         Loại bỏ tuyến tiền liệt bằng phẫu thuật, được gọi là cắt tuyến tiền liệt triệt căn là một sự lựa chọn khác trong điều trị ung thư còn giới hạn trong tuyến tiền liệt. Trong phương pháp này, phẫu thuật viên sử dụng những kỹ thuật đặc biệt để cắt bỏ tuyến tiền liệt và các hạch bạch huyết tại chỗ, trong khi cố gắng bảo tồn các cơ và các dây thần kinh kiểm soát việc đi tiểu và chức năng sinh dục.
         Có hai phương pháp phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt- phẫu thuật sau xương mu và phẫu thuật quanh hậu môn.
          Phẫu thuật sau xương mu. Trong phương pháp này, tuyến được lấy ra qua một đường rạch đi từ ngay dưới rốn tới khoảng 3cm trên gốc dương vật. Kỹ thuật này thường được sử dụng một cách phổ biến để cắt bỏ tuyến tiền liệt vì hai lý do. Thứ nhất, bác sĩ có thể sử dụng cùng một đường rạch để lấy các hạch của khung chậu, chúng được xét nghiệm xem ung thư đã lan tràn vào hạch chưa. Thứ hai, phương pháp này giúp cho phẫu thuật viên tiếp cận tốt với tuyến tiền liệt và làm cho dễ dàng bảo tồn các dây thần kinh, giúp kiểm soát chức năng của bàng quang và cương cứng dương vật.
          Phẫu thuật quanh hậu môn. Trong phương pháp phẫu thuật quanh hậu môn, một đường rạch được thực hiện giữa hậu môn và bìu dái. Phẫu thuật này thường ít chảy máu hơn với phẫu thuật quanh hậu môn và thời gian hồi phục có thể ngắn hơn, đặc biệt nếu bạn quá cân. Tuy nhiên, với phương pháp này, phẫu thuật viên không thể lấy các hạch ở gần.
         Trong quá trình phẫu thuật, một ống thông được đưa vào bàng quang của bạn qua dương vật để dẫn lưu nước tiểu. ống thông này còn được đặt tại chỗ trong vòng một tuần đến hai tuần sau phẫu thuật trong thời gian đường dẫn nước tiểu lành lại.
         Sau khi ống thông được rút ra, bạn sẽ có một số khó khăn trong kiểm soát bàng quang (không nhịn đi tiểu được), nó có thể kéo dài trong một số tuần hay một số tháng. Phần lớn bệnh nhân thường kiểm soát trở lại được. Nhiều bệnh nhân còn không kiềm chế được đi đái do áp lực, có nghĩa là họ không giữ được dòng nước tiểu khi áp lực tăng như xảy ra khi hắt hơi, ho hoặc cười. ở một số người, sự rò rỉ nước tiểu nặng kéo dài và một phẫu thuật thứ hai là cần thiết để sửa chữa rối loạn này.
         Liệt dương là một tác dụng phụ phổ biến nhất của cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt căn vì các dây thần kinh ở cả hai phía của tuyến tiền liệt kiểm soát sự cương cứng có thể bị tổn thương hoặc cắt bỏ trong phẫu thuật. Hầu hết những người đàn ông tuổi trẻ dưới 50 tuổi được phẫu thuật bảo toàn dây thần kinh có thể đạt được sự cương cứng bình thường sau đó, và một số đàn ông ở tuổi 70 vẫn có thể duy trì chức năng sinh dục bình thường. Những người đàn ông có những rối loạn trong việc đạt được hoặc duy trì sự cương cứng trước phẫu thuật có nguy cơ cao hơn bị liệt dương sau phẫu thuật.
Hoá trị
         Loại điều trị này sử dụng các hoá chất để phá huỷ một cách nhanh chóng các tế bào đang phát triển. Hoá trị có thể khá hiệu quả trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt, nhưng nó không thể chữa khỏi bệnh. Vì nó có nhiều tác dụng phụ hơn so với liệu pháp hormon, hoá trị thường dành cho những bệnh nhân có ung thư tuyến tiền liệt đề kháng với hormon, đặc biệt nếu ung thư gây nên những vấn đề khó khăn.
         Những thuốc hoá trị mới đã được phát triển, những thử nghiệm tiếp tục sử dụng hoá trị một thuốc, hoá trị kết hợp nhiều thuốc và kết hợp hoá trị và liệu pháp nội tiết tố. Những kết quả sớm là tốt, nhưng việc thử nghiệm rộng rãi với các thuốc mới đang còn đợi để được quyết định. Trong tương lai, biện pháp gen hoặc liệu pháp miễn dịch có thể có hiệu quả hơn trong điều trị các u di căn của tuyến tiền liệt. Kỹ thuật hiện nay giới hạn việc sử dụng những điều trị thực nghiệm này ở một số lượng nhỏ các trung tâm.
Liệu pháp lạnh
         Phương pháp điều trị này được sử dụng để phá huỷ các tế bào bằng làm lạnh mô. ý tưởng đầu tiên điều trị ung thư tuyến tiền liệt là đưa một thiết bị vào tuyến tiền liệt qua da giữa trực tràng và bìu dái (quanh hậu môn). Khi sử dụng một đầu dò vi sóng trực tràng để theo dõi và kiểm tra phương pháp này, tuyến tiệt liệt được làm đóng băng với mục đích phá huỷ các tế bào ung thư. Sự thiếu chính xác trong việc kiểm soát sự lan rộng của quá trình làm lạnh gây hậu quả là tổn thương mô xung quanh bàng quang và những biến chứng lâu dài, chẳng hạn như tổn thương trực tràng hoặc các cơ kiểm soát việc đi tiểu.
         Mới đây, đã có những đầu dò nhỏ hơn và những phương pháp chính xác hơn để kiểm tra nhiệt độ trong và xung quanh tuyến tiền liệt bị phá huỷ. Những tiến bộ này có thể làm giảm những biến chứng kết hợp với liệu pháp lạnh, làm cho nó có hiệu quả hơn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Mặc dù những tiến bộ đang còn tiếp tục, cần nhiều thời gian hơn để quyết định liệu pháp lạnh có hiệu quả như thế nào để có thể được chọn là một biện pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt.
Liệu pháp trì hoãn
         Xét nghiệm PSA của máu có thể giúp phát hiện ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn rất sớm. Điều này cho phép nhiều bệnh nhân lựa chọn liệu pháp trì hoãn như một sự lựa chọn điều trị. Trong liệu pháp trì hoãn (còn gọi là liệu pháp chờ đợi), các xét nghiệm máu theo dõi đều đặn, thăm khám trực tràng và có thể sinh thiết được thực hiện để theo dõi sự tiến triển của ung thư của bạn.
         Trong liệu pháp trì hoãn, không điều trị thuốc. Các thuốc, xạ trị và phẫu thuật không được sử dụng. Liệu pháp trì hoãn có thể được lựa chọn nếu ung thư của bạn không gây triệu chứng, hy vọng phát triển rất chậm, nhỏ và khư trú ở một vùng của tuyến tiền liệt. Liệu pháp trì hoãn có thể đặc biệt thích hợp nếu bạn đã già, sức khoẻ kém hoặc cả hai. Những người đàn ông như vậy sẽ sống vượt ra khoảng thời gian hy vọng sống bình thường ngay cả khi không điều trị và thường không có sự lan tràn của ung thư hoặc gây nên những vấn đề khác. Liệu pháp trì hoãn cũng có thể là sự lựa chọn hợp lý miễn là bạn phải biết sự thật là phải sẵn sàng cảnh giác và chấp nhận nguy cơ lan tràn của u trong giai đoạn theo dõi, làm cho ung thư của bạn không điều trị được.
Dự phòng
         Ung thư tuyến tiền liệt không thể dự phòng được nhưng bạn có thể áp dụng các biện pháp để làm giảm nguy cơ mắc bệnh của bạn hoặc có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh. Những bước quan trọng nhất bạn có thể duy trì “sức khoẻ” của tuyến tiền liệt và sức khoẻ nói chung là ăn tốt, giữ hoạt động thể lực tốt và đi khám sức khoẻ đều đặn.
Ăn tốt
         Chế độ ăn nhiều mỡ liên quan với ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy, giới hạn việc ăn uống những thức ăn nhiều mỡ, chú trọng đến quả, rau và các chất xơ có thể giúp bạn làm giảm nguy cơ ung thư. Các thức ăn giàu chất licopene, một chất chống chất oxy hoá có thể giúp bạn hạ thấp nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Những thức ăn này gồm cà chua tươi hoặc nấu chín, các sản phẩm từ cà chua, nho và dưa hấu. Tỏi và các loại rau họ cải, khoai môn, hoa lơ xanh, cải Bruxen, cải bắp, xúp lơ trắng cũng có thể giúp chống ung thư.
         Các sản phẩm của đậu tương chứa isoflavone hình như kiểm soát được testosterone (một nội tiết tố sinh dục nam giới). Vì ung thư tuyến tiền liệt chịu ảnh hưởng của testosterone, isoflavone có thể làm giảm nguy cơ và sự tiến triển của bệnh.
         Vitamin E vừa được chứng minh có hứa hẹn trong việc làm giảm nguy cơ của ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu hơn nữa là cần thiết để quyết định một cách đầy đủ việc mở rộng những lợi ích này của vitamin E.
Bảo vệ bằng thuốc
         Nghiên cứu trên dự phòng ung thư tuyến tiền liệt vừa chứng minh rằng thuốc finasteride (Proscar, Propecia) có thể dự phòng hoặc làm chậm sự khởi phát của ung thư tuyến tiền liệt ở những người đàn ông 55 tuổi hoặc già hơn. Thuốc này hiện đang được sử dụng để kiểm soát sự to lên của tuyến tiền liệt hoặc quá sản tuyến tiền liệt lành tính. Tuy nhiên, finasteride cũng được chứng minh là có góp phần làm tăng các tác dụng phụ sinh dục và có tăng nhẹ nguy cơ phát sinh ung thư tuyến tiền liệt độ cao hơn. Thuốc này hiện nay không được sử dụng thường quy để dự phòng ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, nếu bạn có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn, hãy hỏi bác sĩ về việc sử dụng finasteride.
         Cuối cùng, các thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDS) có thể dự phòng ung thư tuyến tiền liệt. Các thuốc này bao gồm ibuprofen (Advil, Motrin và các thuốc khác) và naproxen (Aleve). Các thuốc này ức chế một enzym được gọi là COX-2, được tìm thấy trong các tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Nhiều nghiên cứu hơn là cần thiết để khẳng định liệu việc sử dụng NSAID có làm giảm tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt hoặc giảm tử vong do bệnh này không.
Luyện tập đều đặn
         Luyện tập đều đặn có thể dự phòng cơn đau tim và các trạng thái như huyết áp cao và cholesterol cao. Đối với ung thư, số liệu này không rõ, nhưng những nghiên cứu đã chỉ rõ ràng luyện tập đều đặn có thể làm giảm nguy cơ ung thư, bao gồm ung thư tiền liệt tuyến.
         Luyện tập vừa được chứng minh là tăng cường hệ thống miễn dịch của bạn, cải thiện tuần hoàn và tiêu hoá. Tất cả những cải thiện do luyện tập này có thể có vai trò trong dự phòng ung thư. Luyện tập cũng có thể giúp dự phòng béo phì, yếu tố nguy cơ quan trọng khác với một số ung thư.
         Luyện tập đều đặn cũng có thể làm giảm tới mức tối thiểu các triệu chứng và làm giảm nguy cơ phì đại tuyến tiền liệt hoặc quá sản tuyến tiền liệt lành tính.
Kinh nghiệm đối đầu với ung thư
         Một khi bạn nhận được một chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt hoặc chấp nhận việc điều trị bệnh này, bạn có thể có nhiều cảm giác, bao gồm sự nghi ngờ, sợ hãi, tức giận, lo lắng, tình trạng trống trải và trầm cảm. Bạn có thể không thoát khỏi những cảm giác đau đớn này. Nhưng bạn có thể tìm thấy những cách tích cực đối phó với chúng để chúng không thể ngự trị trong đời sống của bạn. Những phương thuốc sau đây có thể giúp bạn đối phó với một số trong những khó khăn của ung thư tuyến tiền liệt:
          Phải được chuẩn bị tư tưởng. Hỏi bác sĩ của bạn những câu hỏi và đọc về ung thư tuyến tiền liệt và những tác dụng phụ có khả năng xảy ra. Càng ít điều bất ngờ với bạn, bạn sẽ đáp ứng nhanh hơn.
          Duy trì một đời sống bình thường có thể được. Đừng để ung thư hoặc các tác dụng phụ do điều trị nó kiềm chế bạn mỗi ngày. Cố gắng duy trì cách sống thường ngày bạn đã có trước khi biết về bệnh ung thư của bạn. Trở lại làm việc, đi du lịch hoặc cùng với con cháu đi chơi ngắn để giải trí. Bạn cần các hoạt động tạo cho bạn khả năng đánh giá được mục đích của từng việc, việc thực hiện và ý nghĩa. Cũng cần thấy rõ rằng ban đầu bạn có thể có một số giới hạn.
         Bắt đầu xây dựng một cách chậm và tăng dần mức chịu đựng của bạn.
          Tránh không đắm mình trong những cảm giác buồn. Tìm những cách giải trí và lập kế hoạch ít nhất có được một điều vui mỗi ngày. Việc này có thể bao gồm theo đuổi một thú tiêu khiển riêng, chơi bóng hoặc đi xem phim.
          Chịu khó luyện tập. Luyện tập giúp chống lại sự trầm cảm và là một cách tốt làm giải toả sự căng thẳng.
          Tìm cách lấy lại thăng bằng. Nếu bạn có những khó khăn trong việc không nhịn đi tiểu được, ngồi ở sau rạp hát hoặc phòng họp thay cho việc ngồi phía trước. Bằng cách này bạn ít bị chú ý nếu bạn cần đi tiểu. Ngồi ở một vị trí bên cạnh lối đi ở giữa trên máy bay hay trên tàu hoả. Mặc các loại quần lót thấm tốt nếu bạn không giám chắc bạn ở gần nhà vệ sinh. Tránh các sản phẩm của cà phê có xu hướng làm tăng nhu cầu đi tiểu của bạn.
          Cởi mở với bạn, một thành viên trong gia đình hoặc nhà tư vấn. Ung thư là một gánh nặng quá lớn đối với việc bạn có thể tự chăm sóc hoàn toàn bản thân. Đôi khi sẽ có lợi nếu bạn nói với một người nào đó về những cảm nghĩ sâu sắc nhất của bạn và những nỗi sợ hãi. Tinh thần và cơ thể bạn không thể tách riêng. Khi bạn cảm thấy tốt hơn về cảm xúc, bạn sẽ có thể đối phó với bệnh về thể lực tốt hơn.
          Tìm cách quan hệ tình dục. Phản ứng tự nhiên của bạn với sự liệt dương có thể là tránh mọi quan hệ tình dục. Đừng để rơi vào cảm giác này. Việc sờ mó, giữ chặt, ôm chặt và vuốt ve có thể trở nên quan trọng hơn nhiều với bạn và vợ bạn. Thực ra sự gần gũi bạn được phát triển qua những hành động này có thể tạo một quan hệ tình dục được thậm chí mạnh mẽ hơn mà trước đó bạn chưa bao giờ có được. Có nhiều cách để bộc lộ bản năng tình dục của bạn.
          Tìm những cảm xúc tích cực. Ung thư không phải tạo nên tất cả những cảm xúc âm tính với bạn. Những điều tốt cũng có thể nảy nở từ căn bệnh này. Việc đối mặt với ung thư có thể làm cho bạn lớn lên hơn trong cảm xúc và tâm hồn để xác định những điều gì là thực sự quan trọng với bạn, sắp đặt một cuộc đấu tranh lâu dài với bệnh tật và dành nhiều thời gian cho những người quan trọng với bạn.  
Thuốc bổ sung và thay thế
         Do quần chúng ngày càng có vai trò tích cực hơn trong sự chăm sóc sức khoẻ của mình, nhiều người đã khám phá những sự lựa chọn điều trị vượt ra ngoài lĩnh vực hiểu biết của y học truyền thống. Thực ra, một giới hạn rộng của các chất bổ trợ chế độ ăn và các thuốc thảo dược cung cấp những phương thức mới để dự phòng và điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Câu hỏi đặt ra là liệu những phương pháp điều trị này có tác dụng không? Một số cách điều trị có hứa hẹn và đạt được sự chấp nhận một cách chậm chạp trong y học chính thống. Tuy nhiên, lợi ích và nguy cơ của nhiều sản phẩm còn chưa được chứng minh. Một điều đáng tiếc khác là việc sản xuất những sản phẩm này chưa được điều hoà tốt và khối lượng của những vật liệu pha trộn thay đổi từ lọ thuốc này đến lọ thuốc khác hoặc thậm chí từ viên thuốc này đến viên thuốc khác.
         Những sản phẩm thảo dược được bán trên thị trường có làm giảm một số triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt, chẳng hạn như đi tiểu nhiều lần, hoặc dòng nước tiểu yếu, bao gồm:
          Cây mận châu Phi (Prunus Africana)
          Cà chua dại châu Phi (Hyproxis rooperi)
          Quả bí ngô (Cucurbita pepo)
          Cây lúa mạch đen (Secale cereale)
          Cây tầm ma (Urtica dioica, Urtia urens)
         Dùng với những khối lượng nhỏ đến trung bình, các sản phẩm này hình như an toàn. Tuy nhiên, chúng chưa được nghiên cứu trong những thử nghiệm lớn, dài hạn để khẳng định tính an toàn hoặc chứng minh chúng có tác dụng.
Cây cỏ cọ cảnh hình răng cưa (Saw palmetto)
         Một ngoại lệ là cây cọ cảnh hình răng cưa (Serenoa repens). Không giống như những chất bổ trợ thực vật khác, nó đã được thử nghiệm một cách rộng rãi. Tuy nhiên, cần nhớ rằng cây cọ cảnh hình răng cưa được khuyên dùng để điều trị các triệu chứng kết hợp với phì đại tuyến tiền liệt lành tính, không dùng điều trị ung thư tuyến tiền liệt.
         Cây cỏ cọ cảnh răng cưa được cho là hoạt động ngăn cản việc testosterone biến đổi thành một thể khác của testosterone kết hợp với sự phát triển của mô tuyến tiền liệt. Trong năm 1998 đã có trên 10 nghiên cứu về cây cọ cảnh hình răng cưa và đã kết luận là loại cỏ này hình như có hiệu quả như thuốc finasteride (Proscar) trong việc làm giảm kích thước của tuyến tiền liệt to. Hình như nó cũng gây nên ít các tác dụng phụ hơn. Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị cần nghiên cứu tiếp để xác định liều hàng ngày chính xác của chất bổ sung này và hiệu quả lâu dài của nó.
         Cây cọ cảnh răng cưa tác dụng chậm. Hầu hết bệnh nhân bắt đầu thấy sự cải thiện các triệu chứng đi tiểu trong một đến ba tháng. Nếu sau ba tháng bạn không thấy lợi ích của sản phẩm này, có thể là nó không có tác dụng. Hình như là có thể an toàn khi dùng loại cỏ này mãi mãi, nhưng những tác động do dùng lâu dài chưa được biết đến.
         Một điều bất lợi của loại cỏ này và nhiều sản phẩm cỏ khác là nó có thể ức chế các mức PSA trong máu của bạn. Tác động này có thể cản trở hiệu quả của xét nghiệm PSA. Vì vậy, nếu bạn đang dùng cỏ cọ cảnh răng cưa và các thuốc cỏ khác, điều quan trọng là phải nói với bác sĩ trước khi xét nghiệm PSA.
         Một số sản phẩm thảo dược và thức ăn được dùng nhằm mục đích chống ung thư. Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học là các sản phẩm này có tác dụng. Những chất bổ sung “chống ung thư” bao gồm:
          Cây Creosote (Larrea tridentata) có nguồn gốc từ những bụi cây nhỏ của vùng sa mạc của Tây nam Mỹ và Mexico. Những nhà nghiên cứu đã không chứng minh được rằng loại cỏ này điều trị ung thư một cách hiệu quả và có thể gây suy gan không hồi phục.
          PC-SPES. Đây là một hỗn hợp thảo dược được bán trên thị trường để điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Nó bao gồm tám loại thảo dược: da qing ye (Isatis indigotica), licorice (Glycyrrhiza glabra, Glycyrrhiza uralensis), san qi (Panax pseudoginseng), reishi mushroom (Ganoderma lucidum), Baikal skullcap (Scutellaria baicalensis), chrysanthemum (Dendranthema morifolium), dong ling cao (Rabdosia rubescens) và saw palmetto (Serenoa repens). Một nghiên cứu về PS-SPES trên một tạp chí y học của Anh đã thấy rằng sản phẩm này hoạt động giống như chất bổ trợ. Nó làm giảm nồng độ testosterone, chất này giúp kích thích sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt và trong một số trường hợp ức chế ung thư, ít nhất là tạm thời. Tuy nhiên, sản phẩm này gây liệt dương một cách phổ biến và căng tức vú. Nó cũng có thể gây các cục máu đông ở các tĩnh mạch sâu ở chân và nếu dùng với một khối lượng lớn có thể gây độc.
          Sụn cá mập. Sụn cá mập chứa một protein có khả năng ức chế việc hình thành các mạch máu mới trong các khối u ở cá mập. Việc điều trị bằng sụn cá mập dựa trên lý thuyết là các viên nang có chứa sụn cá mập sẽ có tác động tương tự ở người- làm dừng và co nhỏ các khối ung thư.

CREDCA

Giới thiệu chung

1/16/2024 12:34:07 AM
<p><strong>Chuyen cua chau Nguyen Ngoc Khanh</strong></p>
<p>Anh <strong>Đặng Đ&igrave;nh Thiết</strong><br/>(ảnh chụp năm 2006)</p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>
<p><strong>Sach da xuat ban</strong></p>